Công ty Cổ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn giải trình v/v chênh lệch lợi nhuận sau thuế tại BCTC soát xét hợp nhất bán niên năm 2019 so với cùng kỳ năm trước.
Theo một khảo sát của Grant Thorton, năng lượng tái tạo đang nổi lên như một trong những lĩnh vực được ưu tiên nhất cho đầu tư ở Việt Nam. Năm 2019, năng lượng tái tạo vươn lên đứng vị trí thứ ba chỉ sau fintech và giáo dục, dẫn trước chăm sóc sức khỏe, thương mại điện tử và hậu cần. Năm 2018, lĩnh vực này chỉ đứng vị trí thứ 10 trong xếp hạng các lĩnh vực đầu tư hấp dẫn nhất cả nước.
"Lĩnh vực sản xuất năng lượng cho phép 100% quyền sở hữu nước ngoài"- ông Fred Burke - quản lý đối tác của Baker &McKenzie Việt Nam nói.
Việt Nam đã giảm thuế cho các dự án năng lượng xanh và đã công bố kế hoạch phát triển năng lượng quốc gia, nhằm tạo ra các dịch vụ năng lượng hiện đại, bền vững vào năm 2030.
Ông Phạm Trọng Thực, Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp khẳng định, Bộ Công thương sẽ tập trung hỗ trợ các công ty đã được chứng minh công nghệ thủy điện, năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sinh khối và khí sinh học. "Mục tiêu của Việt Nam là tăng tỷ lệ giá trị thiết bị sản xuất trong nước trong lĩnh vực năng lượng tái tạo lên đến 30% vào năm 2020 và 60% vào năm 2030, và có thể xuất khẩu vào năm 2050", ông nói.
Theo International Finance Corporation (IFC), Việt Nam đang phải đối mặt với nhu cầu năng lượng tăng cao, tăng 13% mỗi năm kể từ năm 2000 và dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức 8% đến năm 2030,.
"Mặc dù Quỹ Xúc tiến năng lượng bền vững (Sustainable Energy Promotion Fund) sẽ được thành lập và tài trợ bởi ngân sách nhà nước", ông Thực nói, "Việt Nam vẫn muốn huy động vốn bên ngoài để tài trợ cho nguồn cung trong tương lai".
Theo ước tính của EVN, hệ thống điện của Việt Nam sẽ cần khoảng 10 tỷ USD đầu tư mỗi năm cho đến năm 2030 để hoàn thành các mục tiêu quốc gia. Vì vậy, tìm được những đối tác phù hợp có thể cam kết số vốn khổng lồ này là một thách thức lớn.
Các nhà đầu tư vào năng lượng xanh của Việt Nam mới là những người sẽ mang lại dòng vốn chính, trong đó có cả các quỹ có chủ quyền và các nhóm chiến lược thực hiện việc mua lại hoặc các liên doanh quốc tế như German ASEAN Power, B.Grimm Power, Trina Solar, Schletter Group, Sunseap International, Gulf Energy Development, InfraCo Asia Development, GE Renewable Energy, và Doosan Heavy.
Dragon Capital đã tài trợ cho Tập đoàn Năng lượng Pacifico. Liên doanh đầu tư Việt Nam-Oman ủng hộ nhà máy năng lượng mặt trời BCG-CME Long An một khoản ngân sách trị giá 48 triệu USD. Quỹ năng lượng sạch IFC và Armstrong SE đầu tư vào Phong Điền, nhà máy năng lượng mặt trời kết nối lưới tư nhân đầu tiên của Việt Nam, với tỷ lệ sở hữu 18% trong năm 2016. Nhà máy hiện tạo ra khoảng 60 triệu kilowatt giờ, đủ để cung cấp năng lượng cho khoảng 35.000 ngôi nhà mỗi năm.
Các nhà đầu tư tư nhân ngày càng quan tâm đến lĩnh vực năng lượng tái tạo. Việt Nam từ lâu đã dựa vào than đá và thủy điện để sản xuất điện. Nhưng với những hậu quả môi trường khôn lường do năng lượng không bền vững gây ra, chính phủ đang tìm kiếm đầu tư tư nhân vào các nguồn năng lượng tái tạo.
Các công ty cổ phần tư nhân nói chung cũng đã bắt đầu xem xét các cơ hội trong ngành công nghiệp này. VinaCapital chia sẻ, họ hiện đang đánh giá các cơ hội trong lĩnh vực này.
Bộ phận đầu tư của Tập đoàn Ngân hàng Thế giới cũng đã đầu tư 75 triệu USD vào công ty điện lực Philippines AC Energy, công ty sẽ phát triển các dự án năng lượng mặt trời và gió tại Việt Nam với tổng công suất lên tới 360MW.
Đầu tư vốn cổ phần tư nhân vào năng lượng tái tạo dự kiến sẽ sớm tăng lên, vì Macquarie Capital, tập đoàn Úc có kinh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực này, đang thành lập một văn phòng tại Việt Nam. Văn phòng này sẽ chịu trách nhiệm nghiên cứu các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, đặc biệt là các dự án năng lượng mặt trời, gió ven biển cũng như các dự án năng lượng đốt rác thải.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà đầu tư tài chính vẫn chưa đẩy mạnh hoạt động của mình vì năng lượng tái tạo vẫn là một lĩnh vực mới. "Chính phủ đã cảnh báo rằng Việt Nam có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu điện hàng năm lên tới 12 triệu MW mỗi giờ vào năm 2023. Sự thiếu hụt có thể bắt đầu sớm nhất là vào năm tới", IFC cho biết.
Theo UNDP, trước đó, đầu tư hàng năm vào năng lượng tái tạo chỉ ở mức 300 triệu USD trong giai đoạn 2011-2015, nhưng đã tăng đáng kể lên 682 triệu USD trong năm 2016. Tổng cộng, Việt Nam đã chứng kiến các khoản đầu tư gần 2,4 tỷ USD vào lĩnh vực này năm 2016. SolarBK, GIC Corporation và Tân Hoàn Cầu là một số cái tên đang mở đường cho sự phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam.
Theo Trí Thức Trẻ
Theo nhiều chuyên gia, việc phát triển hạ tầng giao thông mang tính quyết định đối với mục tiêu mở rộng quy mô thị trường ô tô tại Việt Nam.
Chỉ khi có hạ tầng giao thông tốt, thị trường ô tô mới phát triển và ngược lại. Vì thế việc phát triển hạ tầng giao thông mang tính quyết định đối với mục tiêu mở rộng quy mô thị trường ô tô tại Việt Nam.
Có tiền không dám mua ô tô
Gia đình anh Lê Hoài Trung (quận ở Đống Đa, Hà Nội) có thể coi là khá giả khi nhà cửa ổn định, thu nhập trên 40 triệu đồng/tháng. Dù rất muốn có ô tô để đi lại, phục vụ nhu cầu của cả gia đình nhưng nhiều năm nay ý định này của anh Trung cứ nâng lên đặt xuống. “Mình cũng muốn tậu con xe để đi làm cho đỡ vất vả, thỉnh thoảng đưa vợ con đi du lịch nhưng thực sự ngán ngẩm cảnh tắc đường, đi hàng tiếng đồng hồ mới đến cơ quan rồi đi đâu cũng gặp những bất tiện như: Phải chạy lòng vòng tìm điểm đỗ xe, về nhà hay đến cơ quan cũng phải thuê điểm đỗ. Suy đi tính lại thấy xe máy vẫn tiện hơn…”, anh Trung chốt lại.
Đây là suy nghĩ của không chỉ của anh Trung mà của rất nhiều người đang sinh sống, làm việc tại Hà Nội hay TP HCM.
Đối với các DN sản xuất ô tô, một câu cửa miệng thường thấy thời gian qua khi họ nói về những khó khăn về phát triển, nội địa hoá ô tô là do quy mô thị trường quá nhỏ, chỉ khoảng trên 300 nghìn xe/năm. Theo tính toán, với quy mô dưới 500 nghìn xe/năm, rất khó để các DN ô tô tự tin đầu tư dây chuyền và thu hút các nhà sản xuất linh phụ kiện trong nước nhằm thúc đẩy nội địa hoá. Điều này gián tiếp khiến giá ô tô tại Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực vốn có quy mô thị trường lớn, từ 500 nghìn - 1 triệu xe/năm như Thái Lan, Indonesia, Malaysia…
Theo ông Nguyễn Trung Hiếu, Trưởng Tiểu ban chính sách, Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), hạ tầng giao thông rất quan trọng đối với việc phát triển công nghiệp ô tô. Hạ tầng phát triển sẽ thúc đẩy điều kiện sử dụng ô tô thuận lợi hơn dẫn đến thị trường tăng trưởng bền vững cũng như các chính sách liên quan đến ô tô sẽ dễ làm hơn. Mọi người có điều kiện sử dụng ô tô tốt lên thì ngành công nghiệp ô tô cũng sẽ phát triển theo.
“Hiện nay, có rất nhiều người tại các đô thị có khả năng nhưng không mua xe vì điều kiện đường sá, ùn tắc, chỗ đỗ… chưa đáp ứng, chưa thuận tiện”, ông Hiếu cho biết.
Thị trường ô tô Việt Nam hiện có quy mô hơn 300 xe/năm nhưng dự báo sẽ đạt mức 1 triệu xe/năm trong vòng 5 năm tới.
Thị trường ô tô và hạ tầng giao thông cùng phát triển được không?
Theo ông Hiếu, đối với ô tô, có 2 nguồn thu gồm: Từ các loại như thuế tiêu thụ đặc biệt, VAT,… được gọi là chi phí sở hữu xe. Còn các loại như lệ phí trước bạ, đăng ký, các chi phí để ra biển số,… gọi là chi phí sử dụng xe. “Ở nước ngoài, chi phí để sở hữu xe vừa phải, thậm chí ít nên giá xe thấp, dẫn đến nhiều người mua được xe. Thay vào đó, họ thu phí sử dụng xe, phí cầu đường cao,… Khi giá xe thấp dẫn đến nhiều người mua xe phải lưu thông trên đường sẽ giúp tiền hoàn vốn các dự án giao thông nhanh hơn và từ đó tái đầu tư làm được nhiều đường hơn. Khi giao thông tốt sẽ lại có nhiều người mua xe, dẫn đến công nghiệp ô tô phát triển. “Các nước chọn cách thu nguồn phí lâu dài từ chi phí sử dụng xe chứ không phải thu một nguồn phí lớn từ chi phí sở hữu xe. Theo tôi, đấy có thể là một gợi ý cho Việt Nam”, ông Hiếu chia sẻ.
Ông Trần Hữu Minh, Phó chánh văn phòng Ủy ban ATGT Quốc gia cũng nhận định: “Ở đây nó giống như một cái vòng luẩn quẩn là nếu như chúng ta hạn chế phương tiện thì nhu cầu sử dụng đường bộ thấp, mà nhu cầu sử dụng thấp thì nhu cầu đi đường BOT, xây dựng đường cũng sẽ thấp. Xây đường mà không có người đi. Vì vậy, chúng ta đánh thuế, phí việc đưa vào sử dụng ô tô thì có thể được một chút tiền nhưng cái đó là rất nhỏ so với lợi ích nếu như chúng ta tính toán kịch bản khác, làm sao hỗ trợ cho sở hữu phương tiện một cách hợp lý. Khi đó, người dân sử dụng ô tô nhiều hơn, Nhà nước có cơ hội thu được nhiều tiền hơn để phát triển đô thị, phát triển hạ tầng”.
Ở góc độ quy hoạch mang tính chiến lược, TS Lê Đỗ Mười, Viện Chiến lược và phát triển GTVT (Bộ GTVT) cho rằng, số lượng ô tô hiện đã vượt qua dự báo. Theo dự báo đến năm 2020 cả nước sẽ có khoảng 3,2 - 3,5 triệu xe. Tuy nhiên, hiện nay theo ước tính có khoảng 3,8 triệu ô tô các loại, trong đó xe con khoảng từ 2,5 - 2,8 triệu xe, vượt dự báo khoảng 10%. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng ô tô như hiện nay, hạ tầng giao thông đường bộ trên toàn quốc vẫn thừa sức đáp ứng, chỉ có hạ tầng tại đô thị là chưa đáp ứng được, đặc biệt tại các thành phố lớn.
Hạ tầng đô thị hiện cần có những giải pháp quản lý xe bùng nổ. Cần phải triển khai hoàn thiện theo đúng quy hoạch, hoàn thiện vận tải hành khách công cộng, hoàn thiện về phương tiện khối lượng lớn, các tuyến đường vành đai, tuyến xuyên tâm để đi lại thông thoáng hơn. Kèm theo đó là phải quản lý phương tiện cá nhân.
Thứ hai, cần tạo hệ thống giao thông tĩnh để người dân có những điểm đỗ thuận lợi và quản lý nhu cầu điểm đỗ. Quỹ đất dành cho điểm đỗ phải được dùng đúng mục đích, không để cài cắm các điểm đỗ vào mục đích thương mại. Đồng thời quản lý mức phí đỗ xe theo hướng càng khu vực trung tâm phí càng cao để hạn chế xe vào khu vực trung tâm, tránh ùn tắc.
“Theo tôi, với các đô thị lớn như Hà Nội và TP HCM sẽ rất khó để khuyến khích phát triển phương tiện cá nhân mà cần phải có giải pháp phát triển giao thông công cộng. Xu thế là người dân vẫn có thể sở hữu ô tô cá nhân nhưng chỉ khuyến khích đi ra ngoài nội đô. Nếu bước vào thời kỳ bùng nổ ô tô, mỗi gia đình thậm chí có thể sở hữu từ 1 - 2 ô tô nhưng chỉ để đi ra ngoài nội đô, còn trong nội đô sử dụng phương tiện vận tải công cộng. Ví dụ như Singapore hay một vài quốc gia ở châu Âu, ai cũng có 1 - 2 ô tô cá nhân nhưng chỉ cuối tuần mới sử dụng hoặc họ chọn lựa phương tiện cá nhân khi đi xa, ra ngoài thành phố. Nếu có giải pháp điều tiết như vậy thì thị trường ô tô vẫn phát triển mà vẫn không gây áp lực cho giao thông tại các đô thị lớn”, ông Mười chia sẻ thêm.
Theo Báo Giao Thông
Điện mặt trời không cứu được thiếu điện
Ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), cho biết: Hiện tại, tổng công suất lắp đặt toàn hệ thống điện là 48.000 MW, song mức độ khả dụng chỉ là 39.000 MW.
“Với tốc độ tăng trưởng sử dụng điện trên 10%/năm, nghĩa là năm tới phải có thêm khoảng 4.000 MW nữa, tương đương cần 43.000 MW, không biết lấy đâu ra mà sẵn sàng”, ông Lâm nói tại buổi Toạ đàm: “Câu chuyện năng lượng” cách đây không lâu.
Điện mặt trời phát triển bùng nổ, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu với lượng điện thiếu hụt. Ảnh: Lương Bằng
Nhưng điện mặt trời lại không thể bù đắp được lượng điện thiếu hụt. Điều này được chứng minh bằng con số cụ thể.
Phó Tổng giám đốc EVN tính toán: Nếu lấy tổng lượng điện thương phẩm của năm 2019 là 212 tỷ kWh chia cho 365 ngày thì mỗi ngày cần khoảng 750 triệu kWh.
Trong khi đó, ngày cao điểm nhất gần đây là 21/8, công suất điện mặt trời đạt là 27 triệu kWh. Như vậy, lượng điện còn lại cần có sẵn sàng “bất kể ngày đêm” phải là 720-730 triệu kWh. Điện mặt trời quan trọng nhưng lúc cao điểm chỉ đáp ứng 27 triệu kWh/750 triệu kWh. Lượng còn lại phải bù vào bằng các nguồn điện truyền thống khác như điện than, điện khí, thuỷ điện.
Ngoài ra, nhắc tới điện mặt trời, ông Lâm không quên nhắc đến câu chuyện nan giải thời gian qua, đó là việc hấp thu nguồn điện này khi đường dây truyền tải ở một số khu vực “bùng nổ” điện mặt trời bị quá tải.
Thực tế, theo quy hoạch điện VII, nhiệt dự án nguồn điện đang lâm cảnh chậm trễ, không vận hành đúng thời gian, khiến nguy cơ thiếu điện ngày càng tăng cao.
Theo báo cáo của Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), do nhiều dự án nguồn điện lớn bị chậm tiến độ so với quy hoạch, đặc biệt các nguồn điện BOT, các dự án nhiệt điện than... nên hệ thống sẽ thiếu điện trong cả giai đoạn 2021-2025 (mặc dù đã phải huy động tối đa các nguồn điện, kể cả các nguồn điện chạy dầu).
Sản lượng thiếu hụt năm 2021 khoảng 6,6 tỷ kWh, đến năm 2022 tăng lên khoảng 11,8 tỷ kWh, năm 2023 có thể lên đến 15 tỷ kWh (tương ứng xấp xỉ 5% nhu cầu), các năm 2024-2025 thiếu hụt giảm dần sau khi bổ sung nguồn điện từ các cụm Nhiệt điện khí lô B, Cá Voi xanh.
Việt Nam từng có kế hoạch làm điện hạt nhân, nhưng năm 2016 phải dừng lại. Ảnh minh họa
Nguồn điện nào đủ sức giảm bớt nỗi lo thiếu điện?Theo ông Võ Quang Lâm, đến tận năm 2025, dự báo tăng trưởng nhu cầu sử dụng điện vẫn là trên 10%/năm. Để đáp ứng nhu cầu về điện, cơ cấu các nguồn điện truyền thống cần được quan tâm đúng mức, nghiêm túc. Hiện nay, năng lượng truyền thống hiện chỉ còn nhiệt điện than và nhiệt điện khí có thể nhìn tới.
Dù vậy, Phó Tổng giám đốc EVN cũng bày tỏ lo ngại: Trong bối cảnh, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và Tổng công ty Đông Bắc khai thác than khá khó khăn, công suất không lên được trong khi giá lại tăng lên, dẫn tới phải nhập khẩu than, khí.
“Nhập khẩu khí về phải hoá lỏng chứ không thể nhập khẩu khí tự nhiên, đi bằng tàu lại cần có cảng nước sâu. Có rất nhiều khó khăn, phải trông chờ vào đầu tư lớn, dài hạn thì chủ mỏ khí mới quyết định mở mỏ bởi mỏ khí cần đầu tư 5-7, thậm chí 10 năm mới có khí. Do vậy, cần phải tính toán quy hoạch sớm, chỗ nào làm được nhà máy khí, chỗ nào làm nhiệt điện than”, ông Lâm nói.
Tại Diễn đàn năng lượng Việt Nam được Bộ Công Thương tổ chức mới đây, ông Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, đã có ý kiến liên quan đến điện hạt nhân ở Việt Nam.
Dù Quốc hội đã dừng việc làm điện hạt nhân, nhưng ông Nguyễn Quân cho rằng: Các nguồn năng lượng truyền thống đã cạn kiệt, chúng ta đang phải nhập khẩu than, sắp tới nhập khí hóa lỏng. Nhiệt điện cũng rất nhiều vấn đề, người dân nhiều nơi phản đối vì cho rằng gây ô nhiễm. Thủy điện đã hết nguồn công suất vừa và lớn.
“Điện tái tạo rất giàu có nhưng hiệu quả thấp và không ổn định. Dù ta có nhiều điện mặt trời, điện gió thì phụ tải nền không thể trông cậy vào năng lượng tái tạo được”, ông Nguyễn Quân đánh giá.
Trong bối cảnh đó, để đảm bảo an an năng lượng, nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng cần nghĩ đến một loại hình năng lượng chưa gì thay thế được, đó là là điện hạt nhân.
“Vì một số lý do, trước mắt chúng ta phải dừng (điện hạt nhân), nhưng về lâu dài tôi lo một ngày nào đó chúng ta phải quay trở lại với điện hạt nhân”, ông Quân chia sẻ.
Xung quanh câu chuyện nguồn điện của Việt Nam, TS. Nguyễn Mạnh Hiến, nguyên Viện trưởng Viện Năng lượng, nêu quan điểm: Việt Nam thiếu điện bắt đầu từ năm 2022-2023. Cho nê,n cần đẩy nhanh tiến độ của các nhà máy chậm tiến độ như nhà máy nhiệt điện Sông Hậu, Long Phú 1... ; đồng thời đẩy mạnh phát triển điện gió, điện mặt trời. Như vậy đến năm 2022-2023 sẽ có thêm nguồn điện bổ sung vào hệ thống.
Còn về điện hạt nhân, TS Nguyễn Mạnh Hiến cho rằng Việt Nam không nên bỏ hẳn việc phát triển nguồn điện này, mà cần tiếp tục nghiên cứu đầu tư vào năm 2030.
"2030 khởi động lại thì khoảng 2035-2036 là có điện", TS Nguyễn Mạnh Hiến chia sẻ. Chuyên gia này cũng đánh giá "công nghệ của Nga và một số nước tiên tiến trên thế giới sẽ không xảy ra tình trạng nguy hiểm" và "không ảnh hưởng đến môi trường".
"Việt Nam dừng lại điện hạt nhân nhưng không nên bỏ hẳn. Sau năm 2030, Việt Nam thiếu năng lượng nghiêm trọng. Trong khi đó, than đã hết phải nhập khẩu. Thủy điện cũng khai thác hết, chúng ta cũng sắp sửa phải nhập khẩu khí hóa lỏng. Cho nên nếu tiếp tục không phát triển điện nguyên tử thì phải nhập khẩu rất nhiều khí hóa lỏng và than. An ninh năng lượng bị hạn chế rất nhiều", TS Nguyễn Mạnh Hiến đánh giá.
Theo Vietnamnet
Chiều 5/9, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ đã có buổi tiếp Liên đoàn Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Hàn Quốc (KBIZ) do ông Kim Ki-Mun, Chủ tịch Liên đoàn làm trưởng đoàn.
Được biết, KBIZ đã ký kết hợp tác với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vào năm 2013 và mở Văn phòng đại diện tại TP.HCM.
Tại buổi tiếp, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ khẳng định, Hàn Quốc là đối tác FDI lớn nhất của Việt Nam với 65 tỷ USD vốn đăng ký và các doanh nghiệp của Hàn Quốc giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Quy mô thương mại hai nước đạt 64 tỷ USD vào năm 2018 và phấn đấu đạt 100 tỷ USD vào năm 2020.
Phó Thủ tướng thông báo Bộ Chính trị Việt Nam vừa ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Trên cơ sở này, Chính phủ sẽ có kế hoạch hành động để triển khai trong 10 năm tới.
Chủ tịch KBIZ Kim Ki-Mun cho biết, trên cơ sở chính sách hướng Nam, Chính phủ Hàn Quốc đang tiến hành xây dựng các Khu công nghiệp Hàn Quốc tại các quốc gia khác. Ngoài Myanmar thì Việt Nam cũng là địa bàn mà các doanh nghiệp Hàn Quốc mong muốn đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp này.
Hiện nay có 47.000 lao động Việt Nam làm việc tại Hàn Quốc và các công ty Hàn Quốc đánh giá cao chất lượng nguồn lao động này.
Phó Thủ tướng đề nghị KBIZ làm việc với Bộ KH&ĐT, các địa phương mà KBIZ quan tâm để lựa chọn địa điểm, cách thức triển khai, nếu có vấn đề vượt thẩm quyền sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Theo Diễn Đàn Đầu Tư
Foxconn (Đài Loan), TLC, Lenovo (Trung Quốc), Hanwa (Hàn Quốc), Yokowo (Nhật Bản)… đã và đang di chuyển nhà máy tới Việt Nam để “tránh bão” thương chiến Mỹ - Trung.
Hàng loạt thương hiệu lớn nhắm đến Việt Nam
Căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, nguồn vốn đầu tư và các hiệp định thương mại tự do (FTAs) mới như: EVTFA (Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU), CPTPP (Hiệp định cải cách kinh tế toàn diện xuyên Thái Bình Dương) và RCEP (Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện) cũng được kỳ vọng hoàn tất cuối năm 2019, đã mang lại sự ảnh hưởng tích cực đến thị trường công nghiệp Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực giảm thiểu việc thiếu hụt nguồn nhân lực và chi phí tăng để chuyển đổi sang môi trường kinh doanh minh bạch hơn bằng việc áp dụng công nghệ trong sản xuất và tăng đội ngũ lao động được huấn luyện.
Theo Savills Việt Nam, danh sách các doanh nghiệp nước ngoài di dời nhà máy sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, gồm: Hanwa (Hàn Quốc) về sản xuất phụ tùng máy bay đã di dời sang Hà Nội; Yokowo (Nhật Bản) về sản xuất thiết bị trên xe có động cơ đã di dời sang Hà Nam; Huafu (Trung Quốc) về dệt may đã di dời sang Long An.
Những công ty đang di dời nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam, gồm: Goertek (HongKong) về sản suất tai nghe và linh kiện điện thoại sẽ di dời sang Bắc Ninh; TLC (Trung Quốc) về điện tử, tivi sẽ di dời sang Bình Dương.
Những công ty đang xem xét di dời, gồm: Foxconn (Đài Loan); Lenovo (Trung Quốc); Sharp, Kyocera, Nintendo, Asics (Nhật Bản).
Cạnh tranh với Indonesia, Malaysia nhưng Việt Nam có nhiều lợi thế
So sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam năm 2018 có 94,6 triệu dân. Việt Nam cũng như Indonesia và Maylaysia đều có dân số trẻ khi dân số trong độ tuổi trên 65 tuổi chỉ chiếm 6% - 7%, rất lợi thế so với Trung Quốc và Thái Lan khi tỷ lệ này là 11-12%.
Lực lượng dân số trong độ tuổi lao động trẻ chủ yếu (15-54 tuổi) chiếm tới 60-62% dân số.
Lực lượng dân số trẻ của Việt Nam chiếm 62% cũng đang phải cạnh tranh với Malaysia chiếm 57% và Indonesia chiếm 59% trong sự lựa chọn di chuyển nhà máy khỏi Trung Quốc của các thương hiệu sản xuất lớn.
Tuy nhiên, Việt Nam với sự tăng trưởng kinh tế thuộc hàng nhanh nhất Đông Nam Á, dự kiến năm 2019 tăng trưởng GDP ở mức 6,8%, cao hơn Philippines dự kiến 6,2%, Indonesia 5,8% và Malaysia là 4,5%, Thái Lan 3,5%, Singapore 2,4% (theo Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB).
Bên cạnh đó, theo Ngân hàng Thế giới (WB) tỷ số hoạt động kinh doanh của Việt Nam đứng thứ 69 trong 190 nền kinh tế dễ hoạt động kinh doanh, cũng như chi phí lương lao động ngành sản xuất tại Việt Nam năm 2018 đang rất rẻ, chỉ 237 USD/tháng, cao hơn Indonesia là 190 USD/tháng, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc là 866 USD/tháng, Malaysia là 924 USD/tháng và Thái Lan là 412 USD/tháng.
Điều đặc biệt, chi phí xây dựng nhà xưởng tại TP.HCM (Việt Nam) rất hấp dẫn, thấp hơn Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia và cả Indonesia. So với 4 quốc gia trên, tại Việt Nam, giá thuê nhà xưởng, nhà kho là 380 USD/m2 so với mức 400-580 USD/m2; Giá thuê Nhà kho lớn trumg tâm tại Việt Nam là 410 USD/m2 so với mức 440 - 780 USD/m2; Giá nhà xưởng công nghệ cao tại Việt Nam là 610 USD/m2 so với mức 650 – 1.190 USD/m2 của 4 quốc gia còn lại.
Ngoài ra, chỉ số tăng trưởng sản xuất công nghiệp của Việt Nam đang tăng mạnh với mức 9,6% trong 7 tháng đầu năm 2019. So với mức tăng trưởng âm của Thái Lan âm 5,5%, Trung Quốc 6,3%, Indonesia 2,6%, Malaysia 3,9%.
Việt Nam cũng là quốc gia đang có tốc độ xuất khẩu vào Mỹ rất cao, trong 3 tháng đầu năm 2019, Việt Nam xuất khẩu tăng tới 40,2% vào Mỹ chủ yếu là các mặt hàng may mặc đạt 4,42 tỷ USD; Giày dép 2 tỷ USD; Máy móc thiết bị và phụ tùng 1,3 tỷ USD; Gỗ và cao su 1,42 tỷ USD.
Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ giảm 20%, Canada giảm 4%, Hàn Quốc tăng 17%, Ấn Độ tăng 15%...
Theo ông John Campell, Tư vấn cấp cao, Dịch vụ Công nghiệp của Savills Việt Nam, tỷ lệ lấp đầy ở các tỉnh trọng điểm tăng trưởng mạnh theo năm, quỹ đất dồi dào và các dự án tiêu biểu gia tăng đã thúc đẩy sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Các nhà sản xuất đang gia tăng sự chú ý vào các tỉnh miền Trung, Huế, Quảng Nam và Quảng Ngãi cũng nhận được rất nhiều yêu cầu do mức giá thuê đất ưu đãi và cạnh tranh. Các chủ đầu tư trong thị trường công nghiệp cũng đang đẩy mạnh chuyển đổi đất nông nghiệp sang đất công nghiệp, tạo nguồn cung mới.
Cẩn trọng chọn vốn FDI
Theo Savills Việt Nam, Việt Nam đang có 326 khu công nghiệp với tổng diện tích 95.500 ha với đất công nghiệp 65.600 ha. Trong đó, 251 khu công nghiệp đã hoạt động với gần 61.000 ha, 74% lấp đầy; 75 khu công nghiệp với 29.300 ha, đang xây dựng và đền bù, giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó còn có 17 đặc khu kinh tế duyên hải cung cấp 845.000 ha.
Tổng số lao động làm việc trong các khu kinh tế và đặc khu kinh tế duyên hải là 3,6 triệu lao động.
Với sự đổ bộ ồ ạt của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, kể cả nguồn vốn dịch chuyển từ Trung Quốc để “tránh bão” thương chiến, theo Savills Việt Nam, nửa đầu năm 2019, nguồn vốn chủ yếu là các nước trong khu vực Châu Á.
Cụ thể, HongKong gồm: Beerco Limited đầu tư 4 tỷ USD vào khu công nghiệp Từ Liêm (Hà Nội), Goertek đầu tư 260 triệu USD vào khu công nghiệp Quế Võ (Bắc Ninh), Meiko Eletronics Vietnam Co., Ltd đầu tư 200 triệu USD vào Khu công nghiệp Thạch Thất (Hà Nội).
Trung Quốc gồm: ACTR Company Limited đầu tư 280 triệu USD vào khu công nghiệp Phước Đông (Tây Ninh), Advance Vietnam Tire Co., Ltd đầu tư 214 triệu USD vào khu công nghiệp Long Giang (Tiền Giang).
Mỹ gồm có: Universal Alloy Corporation đầu tư 170 triệu USD vào khu công nghệ cao (Đà Nẵng), TTI, Inc. đầu tư 150 triệu USD vào khu công nghệ cao Saigon Hi-Tech Park (TP.HCM)…
Phân khúc bất động sản công nghiệp Việt Nam đang phát triển trên đà tăng của nguồn vốn FDI gấp 10 lần trong suốt thập kỷ qua. Nguồn cung đất công nghiệp dồi dào đang tạo điều kiện cho các dự án sản xuất và tăng các lựa chọn thuê đối với cả nhà xưởng xây sẵn cho thuê (RBF) và nhà xưởng xây theo yêu cầu (BTS). Việt Nam cần cẩn trọng lựa chọn các dự án sắp tới để tăng trưởng hơn trong giá trị chuỗi, tăng tính cạnh tranh và phát triển bền vững.
Theo Diễn Đàn Đầu Tư
Việt Nam đang nhập khẩu thêm rất nhiều hàng hóa từ Mỹ. Trong các cuộc nói chuyện gần đây với các doanh nhân và nhà ngoại giao Hoa Kỳ, các quan chức Việt Nam đã nói về việc nhập khẩu số lượng lớn sản phẩm bao gồm than, khí đốt tự nhiên, thịt, trái cây và các loại nông sản khác.
Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ đạt 39,5 tỷ USD vào năm ngoái và đang trên đường thiết lập kỷ lục mới trong năm nay. Đặc biệt, nhập khẩu năng lượng có thể sẽ tăng mạnh bởi Việt Nam, một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á, sẽ phải đối mặt với khủng hoảng cung cấp điện vào năm 2021.
Một số công ty Mỹ đang rời khỏi Trung Quốc khi thuế quan đối với hàng nhập từ Trung Quốc ngày một tăng cao hơn. Và đồng thời, vì bản thân họ cũng bị đánh thuế đáp trả từ ông Tập, nên họ cũng tìm đến Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác như những thị trường thay thế.
Theo Tổng cục Hải quan, hàng hóa từ Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam 6 tháng đầu năm đạt hơn 6,9 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ 2018.
Trong đó, có 14 nhóm hàng đạt kim ngạch 100 triệu USD trở lên. Dẫn đầu là máy tính, điện tử, tăng 49% so với cùng kỳ 2018, đạt 2,2 tỷ USD, chiếm 32% trong tổng kim ngạch. Ôtô nguyên chiếc tăng tới 107%, đạt trên 24 triệu USD; linh kiện, phụ tùng ôtô tăng 95%, đạt 8,8 triệu USD.
Hàng rau quả từ Mỹ vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm tăng tới 70%, đạt hơn 116 triệu USD; thủy sản tăng 67%, đạt 47 triệu USD. Các loại bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc nhập từ Mỹ cũng tăng hơn 66%, đạt hơn 5 triệu USD.
Nhìn chung, giá hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ thời gian qua giảm khá mạnh, tập trung vào nông, thủy sản, linh kiện điện tử. Hiện tại, tôm hùm, cua huỳnh đế, thịt heo, đậu tương của Mỹ về Việt Nam giá giảm 15 - 50% so với năm ngoái.
Trong những tuần gần đây, các hàng hóa được cho là hàng xa xỉ trước đây ở Việt Nam, như anh đào và táo Mỹ, đã xuất hiện ngày một nhiều trong các cửa hàng. Ông Pete Ricketts - thống đốc đảng Cộng hòa của Nebraska, đã đến thăm Hà Nội trong tuần này, dẫn đầu một phái đoàn thương mại bao gồm Tyson Food, nhà sản xuất thịt, công ty làm hệ thống tưới tiêu, và các nông dân chăn nuôi bò và bê.
"Với việc Trung Quốc cắt giảm nhập khẩu nông sản từ Mỹ, chúng tôi hiểu là chúng tôi cần đa dạng hóa thị trường của mình", ông Ricketts nói với Financial Times. "Chúng tôi muốn xem liệu chúng tôi có thể phát triển những nơi khác, để cho nông dân và chủ trang trại của mình bán sản phẩm của họ ở Đông Nam Á hay không".
Việt Nam được cho là một trong những quốc gia hưởng lợi chính từ cuộc chiến thương mại, vì Việt Nam sản xuất nhiều hàng hóa tương tự với các mặt hàng Trung Quốc bị áp thuế mới của Mỹ.
Việt Nam cũng đã được hưởng lợi từ đầu tư mới, nhưng cũng phải giám sát chặt chẽ khâu vận chuyển hàng hóa để tránh việc hàng hóa từ Trung Quốc gắn nhãn Made in Vietnam để tránh thuế quan.
Theo CafeF
Ngày 7/9, tại TPHCM, Sở Du lịch TPHCM tổ chức Hội thảo quốc tế Du lịch thông minh tại TPHCM. Hội thảo thu hút các chuyên gia, nhà khoa học đến từ nhiều quốc gia và lãnh đạo các sở, ban, ngành TPHCM tham dự, nhằm thảo luận những giải pháp, mô hình phù hợp góp phần đẩy mạnh sự phát triển của du lịch thông minh cho thành phố. Đồng thời tạo cơ sở để xây dựng Đề án Phát triển du lịch thông minh tại TPHCM.
Hội thảo là hoạt động diễn ra trong khuôn khổ Hội chợ Du lịch Quốc tế TPHCM năm 2019 diễn ra từ 4-7/9 tại TPHCM.
Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân gặp gỡ các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế tại hội thảo
Phát biểu tại hội thảo, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Trần Vĩnh Tuyến cho biết, năm 2017 TPHCM đã công bố Đề án “Xây dựng TPHCM trở thành đô thị thông minh giai đoạn 2017 - 2020, tầm nhìn 2025”, đưa TPHCM trở thành một trong những địa phương duyệt đề án xây dựng đô thị thông minh sớm nhất trong cả nước. Thành phố xác định đổi mới quản lý gắn với ứng dụng công nghệ thông tin là giải pháp khả thi để phát triển thành phố.
Hội thảo bàn những giải pháp, mô hình phù hợp góp phần đẩy mạnh sự phát triển của du lịch thông minh cho TPHCM
Theo ông Trần Vĩnh Tuyến, sau 18 tháng triển khai đề án, đến nay thành phố đã xây dựng và vận hành được một số hạ tầng căn bản cho đô thị thông minh, gồm: kho dữ liệu dùng chung và hệ sinh thái dữ liệu mở; trung tâm điều hành đô thị thông minh; trung tâm mô phỏng và dự báo kinh tế - xã hội, trung tâm an toàn thông tin thành phố.
“Thời gian vừa qua, với việc thực hiện đề án phát triển du lịch thông minh, thành phố đã ứng dụng mạnh mẽ các yếu tố công nghệ để phát triển du lịch. Qua đó, đưa tốc độ tăng trưởng ngành du lịch trên địa bàn đạt được những kết quả đáng mừng. Dựa trên những tiềm năng, thế mạnh của mình, thành phố còn rất nhiều dư địa để phát triển du lịch thông minh”, ông Tuyến khẳng định.
GS. Perry Hubson chia sẻ ý kiến tại hội thảo
Chia sẻ tại hội thảo, GS. Perry Hubson, Tổng Biên tập Tạp chí Journal of Vacation Marketing, cho rằng những yếu tố mà một điểm đến du lịch thông minh như TPHCM cần có chính là phải làm sao để kết nối các cấu phần hạ tầng trong một thành phố. Ông Perry Hubson nhấn mạnh: Điều quan trọng của du lịch thông minh chính là cần tạo nên những công cụ và trải nghiệm liền lạc, gắn kết với nhau thông qua những công nghệ hiện đại như AI, big data... “Thành phố Dubai (UAE), Helsinki (Phần Lan), hay Lyon (Pháp) là những điển hình về xây dựng du lịch thông minh và TPHCM cũng có thể trở nên như vậy”, GS. Perry Hubson nói.
Trong khi đó, ông Luigi Campanale, Tổng Giám đốc Tập đoàn SCE Project Asia (Ý) nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc phát triển yếu tố di sản văn hóa trong một đô thị thông minh. Theo ông Luigi Campanale, những di tích như khối nhà cổ, các bảo tàng văn hóa vừa mang biểu tượng cổ kính, uy nghi, đồng thời còn là yếu tố tham gia phát triển du lịch thông minh một cách bền vững.
Các chuyên gia thảo luận tại buổi hội thảo
Dẫn chứng ngay tại trung tâm TPHCM, ông Luigi Campanale cho rằng tại vùng lõi của thành phố như địa bàn quận 1 có nhiều villa, nhà cổ, tuy nhiên chúng chưa được sử dụng hiệu quả. Riêng di tích Dinh Gia Long mang giá trị văn hóa vô hình lẫn hữu hình và đây chính là giá trị xương sống của một thành phố du lịch. “Cần có chính sách để phát triển những hạ tầng này. Khi đó chúng ta có thể buộc du khách chi tiền để trải nghiệm những địa điểm văn hóa hấp dẫn, thu hút như vậy. Tất nhiên nơi này phải có không gian để du khách thưởng thức văn hóa đồng thời cũng cần có những yếu tố công nghệ gắn liền”, ông Luigi Campanale bày tỏ.
Vị chuyên gia nước Ý cũng cho rằng cùng với sử dụng những vốn có về những di tích lịch sử này, việc thay đổi và bổ sung công năng mới cho nó sẽ giúp thành phố hình thành những điểm đến thu hút du khách.
Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân phát biểu tại hội thảo quốc tế Du lịch thông minh tại TPHCM
Phát biểu tại hội thảo, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân nhìn nhận hội thảo chính là dịp để thành phố thấy được hiện trạng, bức tranh du lịch thế giới, nắm bắt các xu hướng du lịch của quốc tế, biết được đối tác của chúng ta để cùng hợp tác, xây dựng chương trình 10 năm thành phố phát triển du lịch.
Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, thành phố đi vào du lịch thông minh, công nghiệp 4.0 là phù hợp với đặc thù của thành phố, dựa trên những lợi thế về nguồn nhân lực đã có cùng những cấu phần của một đô thị thông minh đã và đang dần hình thành.
Phó Chủ tịch UBND TPHCM Trần Vĩnh Tuyến tặng hoa cám ơn các diễn giả, chuyên gia quốc tế
tham gia đóng góp xây dựng du lịch thông minh cho thành phố
“Hôm nay thành phố học được nhiều điều bổ ích từ những góp ý, chia sẻ của các vị khách quốc tế tại hội thảo. Đề nghị UBND thành phố hoàn thiện chiến lược du lịch thông minh giai đoạn 2020 – 2025. Trong đó lưu lý làm rõ, du lịch thành phố gắn liền với du lịch ĐBSCL. Chúng ta phải nhìn nhận thực tế rằng thành phố không có các tài nguyên du lịch phong phú của ĐBSCL, do đó phải kết hợp du lịch di sản gắn với du lịch đô thị, ven biển, văn hóa, tôn giáo… mà các địa phương 13 tỉnh, thành ĐBSCL vốn có. Hơn nữa, đồng thời với du lịch thông minh cũng cần lưu ý các kết nối thông minh (smart mobility). Trong đó phải chịu khó học hỏi những tiến bộ, cách thức giải quyết vấn đề hiệu quả của các đô thị trong khu vực và thế giới.
Cũng theo ông Nguyễn Thiện Nhân, chính quyền và doanh nghiệp cần ngồi lại bàn bạc xem doanh nghiệp có thể góp ý, sáng kiến làm du lịch thông minh như thế nào, các doanh nghiệp có thể cung cấp dữ liệu cho du lịch hay không và bằng phương thức gì, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp như thế nào...
“Đặc biệt, làm du lịch không phải chỉ có các doanh nghiệp hưởng lợi mà người dân cũng hưởng lợi. Quan tâm đời sống người dân khi phát triển du lịch, tăng trưởng du lịch phải gắn liền đảm bảo đời sống, không để đời sống người dân bị đảo lộn. Cần thiết thì có thể thiết kế quy trình du lịch, tái cơ cấu để họ thích nghi với sự phát triển du lịch”, Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân nói.
Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân tham quan, tìm hiểu các dự án phát triển kinh doanh du lịch thông minh
Ông Trần Vĩnh Tuyến, Phó Chủ tịch UBND TPHCM, bản chất của vấn đề thông minh chính là hợp tác, và nếu không thực hiện điều này thì không thể có thành phố thông minh.
“Sau hội thảo, UBND TPHCM sẽ có kế hoạch triển khai chuyên đề về du lịch thông minh, chiến lược phát triển du lịch, làm việc với các chuyên gia, nhà khoa học để lắng nghe đóng góp, hiến kế; đồng thời làm việc với 13 tỉnh, thành ĐBSCL để phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch”, ông Trần Vĩnh Tuyến cho biết.
Theo CafeF
Các đại dự án hạ tầng tạo sức mạnh liên kết vùng đã tác động đến "khẩu vị" về vị trí của các nhà đầu tư bất động sản.
Hệ thống hạ tầng, giao thông được nâng cấp – Khoảng cách di chuyển không còn là trở ngại với người mua bất động sản.
Vị trí luôn là nhân tố xác định giá trị bất động sản tuy nhiên dưới sự gia tăng mạnh mẽ sở hữu ô tô cá nhân, cùng với các đại dự án hạ tầng tạo sức mạnh liên kết vùng đã tác động đến “khẩu vị” về vị trí của các nhà đầu tư bất động sản.
“Khẩu vị” chọn dự án đang thay đổi từ “bao xa” sang “bao lâu”
Các chuyên gia cho rằng, trước đây nhà đầu tư hay người dân TP.HCM khi hỏi về một dự án bất động sản thì câu đầu tiên họ quan tâm đó là vị trí cách bao xa so với trung tâm. Sở dĩ họ hỏi như vậy vì vị trí càng gần trung tâm thì giá trị dự án đó càng cao, dễ mua, dễ bán, thời gian gia tăng giá trị nhanh...
Tuy nhiên trong bối cảnh xe hơi cá nhân ngày càng phát triển, khu trung tâm TP.HCM chật trội, quỹ đất không còn nhiều, nhà quản lý đô thị quy hoạch theo hướng mở rộng không gian đô thị, kết hợp với hệ thống giao thông không ngừng được nâng cấp, đầu tư mới... khiến bất động sản ven đô ngày càng được chú ý.
Điển hình như tại khu Đông, ngoài những dự án giao thông kết nối liên vùng đang được đầu tư mạnh mẽ như: cao tốc Bến Lức - Long Thành, cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, cao tốc Dầu Giây - Đà Lạt, đường Vành đai 3…mới đây dự án cầu Cát Lái thay thế phà cũng đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua, dự kiến sẽ khởi công từ năm 2020.
Không chỉ giao thông đường bộ được cải thiện mà hệ thống metro trong tương lai và việc ra đời tuyến buýt đường thủy nên việc di chuyển từ những vùng ngoại thành vào trung tâm thành phố cũng trở nên dễ dàng hơn.
Khi nói về xu hướng này, một chuyên gia bất động sản cho biết: “Nếu như cách đây 10 năm người dân đổ xô đi mua xe gắn máy để làm phương tiện di chuyển, thì hiện nay, kinh tế khá lên, nhu cầu mua xe hơi cá nhân cũng đang tăng nhanh. Và yếu tố xe hơi cá nhân đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi giá trị bất động sản.”
Ví dụ trước đây nhiều nhận định lo ngại Khu đô thị Phú Mỹ Hưng quá xa so với trung tâm TP.HCM. Nhưng ngày nay, không chỉ nơi đây mà các dự án lân cận được xem là nơi đáng sống nhờ qui hoạch hiện đại và giao thông kết nối đồng bộ.
Thời của bất động sản “vệ tinh”
CBRE Việt Nam, trong báo cáo tiêu điểm thị trường bất động sản TP HCM quý I/2019 đánh giá, xu hướng dịch chuyển về các vùng lân cận của các chủ đầu tư đang thể hiện rõ rệt. Theo đó, Đồng Nai, Bình Dương, Long An được CBRE Việt Nam xếp vào nhóm các thị trường mới nổi thu hút các chủ đầu tư lớn phần nào cho thấy tầm nhìn của những ông lớn để bắt kịp “khẩu vị” của nhà đầu tư và khách hàng.
Trong khi đó, cuộc sống người dân TP.HCM ngày càng được cải thiện, tỷ lệ người có thu nhập trung bình, cao không ngừng gia tăng...Trước những cảnh báo về ô nhiễm môi trường và cuộc sống hiện hữu hàng ngày khi phải đối mặt với tình trạng ngập nước, kẹt xe... nhiều người đã lựa chọn ở xa trung tâm nhưng trong điều kiện giao thông thuận lợi, rút ngắn thời gian di chuyển nên thành ra “tuy xa mà gần. Và đổi lại họ được một nơi ở chất lượng hơn, xanh hơn.
Bên cạnh đó, theo chuyên gia, một xu hướng mới đang nhen nhóm ở TP.HCM dù chưa nhiều, đó là việc cho thuê ngôi nhà khu trung tâm để chuyển về sinh sống ở các khu đô thị sinh thái vệ tinh, nơi có giao thông thuận lợi và nhiều không gian xanh.
Theo Nhịp Cầu Đầu Tư