Đinh Hồng Bảo Phương

Đinh Hồng Bảo Phương

Chuyên gia cho rằng hiện có rất nhiều nguồn vốn cơ bản dịch chuyển vào thị trường bất động sản. Xem xét nguồn vốn đầu tư vào thị trường 2019 sẽ thấy tình hình năm 2020 sẽ không có nhiều biến động đặc biệt.

Vốn đổ vào thị trường bất động sản năm 2020 có gì đặc biệt?

Dòng vốn đổ vào thị trường bất động sản năm 2020 không có biến động. Nguồn: Internet.

Theo PGS., TS. Trần Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế và quản lý trung ương chia sẻ quan điểm tại Diễn đàn bất động sản thường niên lần thứ 2 năm 2019, từ 2010 đến 2018, đóng góp của bất động sản vào tăng trưởng GDP là 0,6 điểm %, toàn ngành xây dựng là 0,9 điểm %.

"Đây là số liệu và kết quả của Tổng cục Thống kê đã công bố. Tôi cho rằng, với thị trường hiện nay, xem xét nguồn vốn vào thị trường bất động sản là cốt lõi trong tất cả các nghiên cứu", ông Chung nói.

Ông Chung cho rằng, hiện có nhiều nguồn vốn cơ bản dịch chuyển vào thị trường bất động sản:

Vốn FDI dịch chuyển vào Việt Nam, số liệu 18 tháng gần nhất cho thấy gia tăng rõ rệt. Vốn từ các Ngân hàng thương mại đã được cải thiện nhưng có xu hướng siết chặt vào cuối năm.

Hiện đã đạt được 119 nghìn tỷ đồng vốn trái phiếu, trong đó các ngành được 90%, đây là luồng tiền quan trọng của thị trường bất động sản.

Nguồn kiểu hối sau năm 2016 có suy giảm, nhưng đến 3 năm gần đây đạt 16 tỷ đồng vào 2019.  

Nguồn đầu tư tư nhân vào hạ tầng bắt đầu trỗi dây, chứng tỏ kinh tế tư nhân làm được những việc mà cách đây 20 năm chỉ là viễn cảnh. Mở rộng từ bất động sản cho thấy rất nhiều doanh nghiệp tham gia đấu thầu công trình BT là một điều tích cực.

Nguồn phái sinh, đặc biệt là condotel, 4 năm trước nếu có những cảnh báo như hôm nay thì mọi người sẽ tỉnh táo hơn, tránh được những đổ vỡ từng phần.

Ngoài ra còn nguồn vốn vào bất động sản từ chứng khoán, đầu tư công... Tuy nhiên đầu tư công năm 2019 chậm hơn.

Do đó, xem xét nguồn vốn đầu tư vào thị trường 2019, thì sẽ thấy tình hình 2020 sẽ không có nhiều biến động đặc biệt...

"Vận hành vào từng thị trường ngách khác nhau sẽ khác nhau, nhưng vẫn phải quan tâm đến luồng tiền vì đây là động lực phát triển của thị trường. Năm 2020 nếu có điều gì cực đoan xảy ra thì đến trên 50% thị trường bất động sản năm 2020 sẽ theo hướng tiện tiến ngoại suy, đi lên một chút theo hướng bình ổn", ông Chung nhận định.

Theo Tạp Chí Tài Chính

Bộ Xây dựng đánh giá trong quý 3, giá bất động sản tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có biến động, tuy nhiên mức độ không lớn.

Bộ Xây dựng lần đầu công bố thông tin thị trường bất động sản theo quý

Bộ Xây dựng lần đầu công bố thông tin thị trường bất động sản theo quý.

Ngày 28/11, Bộ Xây dựng công bố thông tin về tình hình nhà ở và thị trường bất động sản quý 3 năm 2019. Đây là lần đầu tiên Bộ Xây dựng công bố thông tin định kỳ theo quý về thị trường này.

Ông Nguyễn Mạnh Khởi, Phó Cục trưởng Cục Phát triển nhà và Thị trường bất động sản, cho biết Bộ Xây dựng rất mong muốn công bố các thông tin để nhà đầu tư, khách hàng cũng như nhà quản lý nắm được nhưng từ trước đến nay còn chậm do quy trình rất mất thời gian.

Theo quy định, các sở, địa phương cũng phải công bố thông tin về thị trường bất động sản và cập nhật về Bộ Xây dựng. Đến nay, tỷ lệ này đã đạt mức cao. Bởi vậy, thời gian tới, các thông tin này sẽ được cập nhật ngày một đầy đủ hơn giúp thị trường minh bạch và rõ ràng.

Theo Bộ Xây dựng tổng hợp từ 22 Sở Xây dựng có báo cáo, trong quý 3/2019 có 167 dự án phát triển nhà ở với 134.668 căn hộ được cấp phép và đang triển khai xây dựng.

Đối với dự án du lịch nghỉ dưỡng, có 10 dự án với 3.184 căn hộ du lịch và 720 biệt thự du lịch được cấp phép và đang triển khai xây dựng. Số lượng nhà ở hoàn thành trong quý là 22.004 căn.

Cùng đó, lượng giao dịch bất động sản, bao gồm căn hộ chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền chuyển nhượng, văn phòng cho thuê, căn hộ du lịch (condotel), biệt thự du lịch (resort/villa), văn phòng kết hợp lưu trú (officetel) được tổng hợp từ 15/22 Sở Xây dựng có báo cáo số liệu cho thấy đã có 48.260 giao dịch thành công trong quý vừa qua.

Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cùng một số địa phương có thị trường bất động sản phát triển như Khánh Hòa, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Kiên Giang... ghi nhận sự sôi động của thị trường với 28.674 giao dịch bất động sản thành công, tăng 58,3% so với quý 2/2019.

Trong số đó, số lượng bất động sản du lịch nghỉ dưỡng (căn hộ du lịch, biệt thự du lịch) thành công 2.515 giao dịch - tăng 79,9% so với quý trước đó.

Nguồn cung chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền có 68 dự án với 29.762 căn hộ đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai được các Sở Xây dựng phê duyệt; trong đó, Hà Nội có 22 dự án mới đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai với 6.569 căn hộ chung cư và 640 căn nhà ở thấp tầng; Thành phố Hồ Chí Minh có 8 dự án với 11.797 căn hộ chung cư, 502 căn nhà thấp tầng và 50 căn biệt thự.

Bộ Xây dựng đánh giá, trong quý 3, giá bất động sản tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có biến động, tuy nhiên mức độ không lớn.

Tại Hà Nội, giá căn hộ chung cư tăng khoảng 0,21% so với quý 2/2019; trong đó, căn hộ trung cấp giá tăng khoảng 0,31% so với quý 2/2019, căn hộ bình dân giá tăng khoảng 0,76%, riêng căn hộ cao cấp giá giảm khoảng 0,12%. Đáng chú ý, nhà ở riêng lẻ giá có biên độ tăng lớn nhất, khoảng 1,25%.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, giá căn hộ chung cư tăng khoảng 0,77%; trong đó, căn hộ cao cấp giá khoảng 0,5%, căn hộ trung cấp giá tăng khoảng 0,99%, căn hộ bình dân giá tăng 0,54%. Giá nhà ở riêng lẻ tăng khoảng 2,74%.

Trong quý 3, số lượng các dự án bất động sản, bao gồm số lượng nhà ở, căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, văn phòng kết hợp lưu trú do Bộ Xây dựng đã thẩm định là 19 dự án được Cục Quản lý hoạt động xây dựng thẩm định với số lượng gồm: 15.090 căn nhà ở; 198 căn hộ du lịch.

Cùng đó, Cục Giám định nhà nước và chất lượng công trình xây dựng đã chấp thuận nghiệm thu đưa vào sử dụng 37 dự án với tổng số 15.784 căn nhà ở, 1.945 căn hộ du lịch, 107 căn văn phòng kết hợp lưu trú.

Theo TTXVN

Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2019 của cả nước tăng 0,96% so với tháng trước đó. Đây là mức tăng cao nhất kể từ đầu năm đến nay.

Theo Tổng cục Thống kê, có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với tháng 10/2019.

Theo Tổng cục Thống kê, có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với tháng 10/2019.

Theo (TTXVN/Vietnam+)

Bí thư Thành ủy TPHCM Nguyễn Thiện Nhân thông tin, dự báo năm 2030, huyện Nhà Bè không còn ai làm nông nghiệp, "nếu lên quận thì Nhà Bè là số 1".

Ảnh: Reatimes

Tại hội nghị lần thứ 34 Ban Chấp hành Đảng bộ TP.HCM khóa X ngày 30/11, Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân đặt vấn đề về sự phát triển tại 5 huyện của TP.HCM trong tương lai. 

"Theo nguyên tắc, huyện phải có nhiều đất nông nghiệp và có sản xuất nông nghiệp. Đất thì còn nhiều nhưng còn làm nông nghiệp không", Bí thư Nhân đặt câu hỏi.

Theo ông Nguyễn Thiện Nhân, huyện Củ Chi có diện tích 43.000 ha, đất nông nghiệp là 14.000 ha chiếm 32%, tuy nhiên số lượng người dân làm nông chỉ chiếm 4% tổng số dân. 

Diện tích đất huyện Hóc Môn có diện tích đất gần 11.000 ha, đất nông nghiệp là 2.200 ha chiếm 21%. Dự kiến đến năm 2025, số hộ làm nông chỉ chiếm 0,6% số hộ ở đây.

"Tới lúc đó gần như các huyện này không còn làm nông nghiệp nữa, không thể gọi là huyện được", người đứng đầu Đảng bộ TP.HCM nêu quan điểm. 

Bí thư Nhân nhấn mạnh vấn đề của huyện Bình Chánh. Nơi đây có diện tích đất là 25.000 ha, đất nông nghiệp là 7.900 ha chiếm 31%. Đến năm 2025, theo dự báo, huyện này chỉ còn 0,4% hộ dân tại đây sản xuất nông nghiệp. 

Lãnh đạo Thành ủy TP.HCM cho rằng với việc chênh lệch giữa tỷ lệ phần đất nông nghiệp và tỷ lệ người còn làm nông quá cao, Bình Chánh đang gặp nhiều nguy cơ vi phạm quy định về đất đai.

c

TP.HCM đang đặt vấn đề về sự phát triển tại 5 huyện của TP.HCM trong tương lai

"Khi chờ đợi quy hoạch không được, không còn mục đích sử dụng để làm nông, họ buộc phải tự chuyển đổi mục đích sử dụng đất bất hợp pháp", ông Nhân đánh giá. 

Bí thư Thành ủy nhấn mạnh đây là một sự lãng phí tài nguyên lớn. Chính quyền cần có biện pháp để người dân có thể chuyển đổi mục đích đất hợp pháp và có thể thu được về ngân sách tiền sử dụng đất. 

Tương tự, huyện Nhà Bè đến năm 2025 được dự báo chỉ còn 109 hộ làm nông nghiệp, chiếm là 0,1% tổng hộ. Năm 2030, Nhà Bè không còn hộ nào làm nông nghiệp. Về cơ cấu đất, Nhà Bè có thể là huyện lên quận sớm nhất. 

Huyện Cần Giờ có diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp chiếm 60%, đến năm 2025 còn khoảng 3.000 hộ làm nông nghiệp, chiếm 18% số hộ. Cần Giờ là địa phương duy nhất của TP.HCM còn tỷ lệ người làm nông nghiệp phù hợp với cơ cấu của một huyện.

Từ những lý do trên, người đứng đầu Thành ủy TP.HCM yêu cầu trong năm 2019, Chủ tịch UBDN của 5 huyện trên cần thảo luận với Sở Nông nghiệp, Sở Công Thương, Sở Quy hoạch Kiến trúc tìm định hướng phát triển trong 10 năm tới. 

"Đến năm 2030 chỉ còn Cần Giờ chắc chắn là huyện, 4 huyện còn lại phải tính toán lộ trình 5 năm, 10 năm để chuyển từ huyện lên quận hoặc quận có nông nghiệp", Bí thư Nhân chỉ đạo.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Trong quý III/2019, giá nhà ở riêng lẻ tại TP.HCM tăng 2,74%, trong khi đó tại Hà Nội, giá nhà ở tăng khoảng 1,25% so với quý II/2019.

Ảnh: tapchimuabannhadat.com

Bộ Xây dựng vừa có thông báo về nhà ở và thị trường bất động sản trong quý 3/2019 dựa trên số liệu tổng hợp từ 22 Sở Xây dựng có báo cáo. Theo đó, trong quý III/2019 có 167 dự án phát triển nhà ở với 134.668 căn hộ được cấp phép và đang triển khai xây dựng. Đối với dự án du lịch nghỉ dưỡng, có 10 dự án với 3.184 căn hộ du lịch và 720 biệt thự du lịch được cấp phép và đang triển khai xây dựng. Số lượng nhà ở hoàn thành trong quý là 22.004 căn.

Về lượng giao dịch bất động sản, trong quý III có 48.260 giao dịch bất động sản thành công. Trong đó tại Hà Nội, TP.HCM và một số địa phương có thị trường bất động sản phát triển như Khánh Hòa, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Kiên Giang, ... chiếm đến 28.674 giao dịch, tăng 58,3% so với quý II/2019.

Riêng bất động sản du lịch nghỉ dưỡng, số giao dịch thành công là 2.515 giao dịch, tăng 79,9% so với quý II/2019).

Về nguồn cung nhà ở, bao gồm số lượng chung cư, nhà ở riêng lẻ, đất nền, trong quý 3/2019 có 68 dự án với 29.762 căn hộ đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai được Sở Xây dựng phê duyệt, trong đó tại Hà Nội có 22 dự án mới đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai với 6.569 căn hộ chung cư và 640 căn nhà ở thấp tầng. Tại Tp.HCM có 8 dự án mới đủ điều kiện bán nhà ở hình thành trong tương lai với 11.797 căn hộ chung cư, 502 căn nhà thấp tầng và 50 căn biệt thự.

Giá nhà ở

Giá nhà ở riêng lẻ tại TP.HCM đã tăng khoảng 2,74% so với quý II/2019. Ảnh:tapchimuabannhadat.com

Trong quý III, giá bất động sản tại TP. Hà Nội và TP.HCM có biến động, tuy nhiên mức độ không lớn. Cụ thể:

Tại Hà Nội, so với quý II/2019, giá căn hộ chung cư tăng khoảng 0,21%, trong khi đó đối với phân khúc căn hộ cao cấp giá giảm khoảng 0,12%, căn hộ trung cấp giá tăng khoảng 0,31%, căn hộ bình dân giá tăng khoảng 0,76%. Đối với nhà ở riêng lẻ giá tăng khoảng 1,25% so với quý II/2019.

Tại TP.HCM, giá căn hộ chung cư tăng khoảng 0,77%, trong đó đối với phân khúc căn hộ cao cấp giá tăng khoảng 0,5%, căn hộ trung cấp giá tăng khoảng 0,99%, căn hộ bình dân giá tăng khoảng 0,54%, nhà ở riêng lẻ giá tăng khoảng 2,74%.

Như vậy, giá nhà ở riêng lẻ tại TP.HCM đã tăng nhanh gấp 2 lần so với thị trường Hà Nội.

Bộ Xây dựng cũng cho biết, trong quý III/2019 có 19 dự án được Cục Quản lý hoạt động xây dựng thẩm định với số lượng căn hộ cụ thể: Nhà ở: 15.090 căn; Căn hộ du lịch: 198 căn; Không có biệt thự du lịch và văn phòng kết hợp lưu trú (officetel) nào được thẩm định trong quý.

Ngoài ra, trong quý III/2019 có 37 dự án được Cục Giám định nhà nước và chất lượng công trình xây dựng chấp thuận nghiệm thu đưa vào sử dụng với số lượng căn hộ cụ thể: Nhà ở: 15.784 căn; Căn hộ du lịch: 1.945 căn; Biệt thự du lịch: 0 căn; Văn phòng kết hợp lưu trú (officetel): 107 căn.

Về tình hình cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tín dụng đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh bất động sản quý II/2019 là 478.648 tỷ đồng, tăng 3,6% so với quý I/2019. Dư nợ tín dụng trong lĩnh vực bất động sản trong quý II/2019 tăng so với quý I/2019.

Tuy nhiên về cơ cấu dư nợ cho vay trong lĩnh vực bất động sản không có sự thay đổi lớn, trong đó tỷ lệ dư nợ tín dụng cho vay đối với hầu hết các hạng mục đều tăng, trong đó dư nợ cho vay đối với các dự án khu công nghiệp, khu chế xuất, các dự án khu du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng, cho vay mua quyền sử dụng đất và cho vay xây dựng, sửa chữa nhà ở để bán, cho thuê tăng trên 7% so với quý 1/2019.

Tỷ lệ dư nợ tín dụng đối với các dự án văn phòng cho thuê và dư nợ tín dụng đối với các dự án khu du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng giảm so với quý I/2019.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Là loại hình BĐS lâu đời, đất nền luôn được khách hàng quan tâm với chi phí hợp lý và tính thanh khoản cao.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Trong bối cảnh BĐS công nghiệp lên ngôi và quỹ đất ngày càng khan hiếm, các dự án đất nền đô thị cạnh KCN, khu đô thị cảng càng được săn đón.

Lợi điểm sổ đỏ, sở hữu lâu dài

Tâm lý chuộng đất nền vẫn luôn in đậm trong tâm lý đa phần người Việt với suy nghĩ "mua thổ thì lời". Đáp ứng nhu cầu sở hữu lâu dài, đất nền có biên độ tăng giá ổn định và bền vững. Mặt khác, nhà liền thổ mang đến không gian riêng tư và sự độc lập hơn hẳn các loại hình khác.

Ghi nhận thực tế tại một số dự án đất nền cho thấy, giá không chỉ tăng qua các đợt mở bán mà giá chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp cũng không ngừng tăng. Có những dự án dù tăng giá song tìm kiếm mua lại trên thị trường thứ cấp cũng không có hàng.

Đi kèm với đó, yếu tố pháp lý đang được xem là tiêu chí cực kỳ quan trọng để khách hàng quyết định xuống tiền. Trên thực tế, số lượng các dự án có pháp lý rõ ràng, sổ đỏ sở hữu lâu dài và riêng cho từng nền luôn được săn đón. Thị trường cuối 2019 - đầu 2020 được dự báo sẽ tiếp tục thiếu nguồn cung, trong đó đất nền vẫn được xem là kênh đầu tư hàng đầu.

Đất nền khu đô thị cảng, KCN: Tiềm năng bậc nhất

Theo số liệu cập nhật mới nhất từ Savills, trong 6 tháng đầu năm, cả nước có 326 KCN đã được thành lập với tỷ lệ lấp đầy 74%. Từ đó, đất nền liền kề KCN, khu đô thị cảng biển là từ khóa đầu tư được quan tâm nhiều nhất từ đầu năm 2019 đến nay.

Việc phát triển mạnh các KCN sẽ kéo theo một lượng lớn chuyên gia và người lao động từ khắp nơi đến sinh sống và làm việc. Các khu vực gần KCN thường tập trung dân cư đông đúc, đi kèm nhu cầu thiết yếu về y tế, giáo dục, giải trí cũng như hạ tầng đường xá nâng cấp đồng bộ.

Đầu tư vào BĐS khu vực này, khách hàng nghiễm nhiên được thừa hưởng những tiện ích sẵn có. Thêm vào đó, khi sống gần các khu công nghiệp, cư dân sẽ có cơ hội tìm được việc làm gần nhà với đa dạng các vị trí, từ phổ thông đến chuyên môn cao. Đặc biệt hơn, nếu sản phẩm đó là đất nền nhà phố thì còn mang lại cơ hội kinh doanh xôm tụ, với nguồn khách dồi dào cho gia chủ.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

 

Tương tự các lần ông Trump đánh tiếng “xử lý” Top 7 quốc gia cung cấp hàng hóa vào Mỹ nhiều nhất, Việt Nam chuyển tập trung vào mảng khí đốt...

Ảnh: gibbsconstruction.com

Đến Việt Nam để thảo luận về hợp tác thương mại và đầu tư trong lĩnh vực năng lượng vào tuần trước, Bộ trưởng Thương mại Mỹ, ông Wilbur Ross, đã chứng kiến AES, một tập đoàn năng lượng có trụ sở tại Virginia, ký với Bộ Công Thương một biên bản ghi nhớ triển khai Nhà máy điện khí Sơn Mỹ 2. Trong khi Công ty Murphy Oil có trụ sở tại Arkansas ký được hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí (PSC) Lô 15-2/17 với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam - PVN), Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí Việt Nam (PVEP) và SK Innovation. “Biên bản ghi nhớ này là một cột mốc quan trọng đối với quá trình phát triển Nhà máy Sơn Mỹ 2, dự án mà chúng tôi tin rằng sẽ giúp chuyển đổi ngành năng lượng tại Việt Nam”, ông Mark Green, Chủ tịch AES khu vực châu Á - châu Âu, cho biết.

ơn Mỹ 2 bổ sung cho kế hoạch đầu tư của AES vào cơ sở hạ tầng khí đốt tại Việt Nam cùng với Kho cảng nhập khí hóa lỏng (LNG) Sơn Mỹ với tổng vốn đầu tư dự kiến 1,4 tỉ USD đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt hồi tháng 8.2019.

“Tôi rất vui được chứng kiến các nhà lãnh đạo doanh nghiệp làm việc để tạo dựng các mối quan hệ lớn hơn”, ông Wilbur Ross nói trong bữa tiệc trưa do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Tập đoàn BRG đồng tổ chức. Cảm xúc của ông Wilbur Ross là hoàn toàn hiểu được khi cuộc chiến thuế quan ảnh hưởng tiêu cực tới các nhà xuất khẩu khí đốt của Mỹ.

Nước Mỹ, trên thực tế, đã bị gạt ra xa vai trò một nhà xuất khẩu LNG hàng đầu thế giới khi bị Trung Quốc quay lưng. Theo RT, xuất khẩu LNG của Mỹ sang Trung Quốc đã giảm 80% trong năm tài chính này, so với cùng kỳ năm ngoái. Trung Quốc đang chuyển dần thành một trong những nhà nhập khẩu khí lớn nhất thế giới. Nước này dự kiến sẽ tăng từ 53 triệu tấn nhập khẩu LNG trong năm 2018 lên khoảng 93 triệu tấn vào năm 2025. Thế nhưng, tác động của cuộc chiến thương mại có thể khiến Trung Quốc quay sang ký thỏa thuận 20 năm nhập khẩu khí của Úc.

Thực ra, ngay cả khi Việt Nam đang phải nhập khẩu LNG để sản xuất điện, nhưng các nhà năng lượng Mỹ đã bắt lấy cơ hội định hình tương lai năng lượng của Việt Nam. Exxon Mobil (Mỹ) đã hợp tác với PVN và PVEP để triển khai dự án thượng nguồn mỏ Cá Voi Xanh, mỏ khí được cho là lớn nhất Việt Nam, nằm cách bờ biển miền Trung khoảng 100km về phía Đông.

Tiến độ cấp khí của Cá Voi Xanh được triển khai đồng bộ với tiến độ xây dựng 2 nhà máy dự án Nhà máy điện tuabin khí hỗn hợp Dung Quất I và Dung Quất III ở Quảng Ngãi, theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Trong khi đó, Việt Nam đang phải nhập khẩu khí để sản xuất điện. Ông Lê Minh Nguyên, Giám đốc khu vực của Man Energy Solutions, một tập đoàn năng lượng của Đức, ước tính, tổng nhu cầu khí năm 2020 dự kiến khoảng 11 tỉ m3. Tuy nhiên, sản lượng khí về bờ đang xu hướng giảm, năm 2018 sản lượng khí về bờ là 9,7 tỉ m3, năm 2019 dự kiến chỉ đạt  9,6 tỉ m3 khí, năm 2020 sản lượng có thể nhích lên một chút do được cập nhật một số dự án, như Sao Vàng Đại Nguyệt.

Theo ông Nguyên, trữ lượng các mỏ khí hiện nay của Việt Nam ước đạt 700 tỉ m3, có thể khai thác trong 40-50 năm. Tuy nhiên, vốn đầu tư ban đầu là một trong những nút thắt chính, làm ảnh hưởng đến cả quá trình thăm dò và khai thác khí. Thực tế, đầu tư ban đầu cho các dự án khí rất lớn, ví dụ mỏ Lô B Ô Môn từ 6-7 tỉ USD, còn Cá Voi Xanh khoảng 10 tỉ USD.

Ông Nguyên hy vọng việc nhập khẩu khí cho các dự án Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 chỉ mang tính ngắn hạn. Nguồn cung khí sẽ được bổ sung thêm vào năm 2023, khi 2 siêu dự án là Cá Voi Xanh và Lô B - Ô Môn được cập nhật.

“Phát triển nhiệt điện khí, một sự chuyển đổi tốt hơn cho môi trường của Việt Nam so với nhiệt điện than”, ông Morten Bæk, Quốc vụ khanh phụ trách lĩnh vực Khí hậu, Năng lượng và Hạ tầng Đan Mạch, nói với NCĐT. Tuy nhiên, nếu Việt Nam sử dụng khí hóa lỏng để phát triển điện khí, sự phụ thuộc vào nguồn khí nhập khẩu sẽ hiện diện trong tương lai. Tình hình sẽ tương tự việc Việt Nam nhập khẩu than để sản xuất điện và dần trở nên phụ thuộc vào nguồn than nhập khẩu. Ngoài ra, sự trồi sụt của giá khí cũng là vấn đề Việt Nam cần tính đến.

“Nhiệt điện khí không phải là lời giải cho tương lai bền vững, Việt Nam chỉ nên phát triển nguồn năng lượng này nhằm đa dạng hóa nguồn năng lượng”, ông Morten Bæk nói. Việt Nam có thể giảm mức phát thải carbon hằng năm tới 39% vào năm 2050 so với hiện tại. Mức giảm này tương đương 370 triệu tấn CO2. Ông cho rằng Việt Nam có thể dựa vào báo cáo này để hiện thực hóa quá trình chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh và hiệu quả về chi phí, đồng thời giảm nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Trước đây, các phân khúc bất động sản như nhà phố, biệt thự, căn hộ hay condotel nghỉ dưỡng luôn được khách hàng ưu tiên lựa chọn thì thị trường năm nay đã có nhiều chuyển biến, nhà đầu tư có thêm lựa chọn đầu tư mới tại thị trường tỉnh.

Sức hút mới của bất động sản khu vực Trảng Bom, Đồng Nai

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hạ tầng giao thông- "đòn bẩy" cho phân khúc đất nền Đồng Nai

Với sức mua bất động sản có dấu hiệu giảm nhiệt trong năm 2019, do phân khúc căn hộ với nguồn cung ít, còn phân khúc bất động sản nghỉ dưỡng với loại hình cam kết lợi nhuận đã không còn và không có sức hút lớn với khách hàng và nhà đầu tư. Dẫn đến việc đầu tư chưa hiệu quả mà thay vào đó phân khúc đất nền vùng ven vẫn đang là sự lựa chọn ưng ý của Nhà đầu tư.

Đặc biệt, là thị trường bất động sản các tỉnh lân cận TP.HCM như Bình Dương, Đồng Nai, Bình Phước, … trong những năm gần đây đã vươn lên và phát triển lớn mạnh hơn bao giờ hết. Trong đó, Đồng Nai vẫn đang là mảnh ghép ẩn với nhiều tiềm năng để xây dựng cũng như khai thác trong tương lai.

Đồng Nai một tỉnh đang được Nhà nước quan tâm phát triển kết cấu hạ tầng và hệ thống giao thông đồng bộ khi sở hữu hàng loạt dự án giao thông lớn đang và chuẩn bị triển khai như Cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây đã hoàn thành, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu; Vành đai 4, đường Vành đai 3 Tân Vạn - Nhơn Trạch, cầu Cát Lái đang chuẩn bị triển khai. Bên cạnh đó việc thông qua dự án đầu tư cảng hàng không quốc tế Long Thành với quy mô 5.000ha với tổng mức đầu tư 336.630 tỷ đồng (tương đương 16 tỷ USD) cũng đang trong giai đoạn nước rút để có thể khởi công vào cuối 2020 đã khiến cho bất động sản tại khu vực này cũng theo đó nhanh chóng có sự trỗi dậy.

Dự kiến, đây là sân bay quốc tế lớn trong khu vực - là cảng hàng không đạt cấp 4F, có công suất thiết kế 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Là nơi trung chuyển hàng hóa của toàn khu vực trong nước – là nơi kết nối giao thương quốc tế, khu vực Châu Á, Đông Nam Á.

Đặc biệt phải nói đến thị xã Trảng Bom Đồng Nai nơi đang thu hút rất nhiều sự quan tâm chú ý của các nhà đầu tư. Nằm trong khu vực mở rộng đô thị vành đai của sân bay Quốc tế Long Thành, hệ thống hạ tầng giao thông Trảng Bom ngày càng nâng cấp, đầu tư và mở rộng liên tục. Điều này, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản Trảng Bom ngày càng phát triển. Đây, cũng là "đòn bẩy" giúp cho phân khúc đất nền tại Trảng Bom bùng nổ mạnh mẽ

Theo CafeF

Bắc Ninh dự kiến đầu tư đoạn tuyến cao tốc theo hình thức BT, chi phí 6.000 tỷ đồng. Chiều dài đoạn tuyến 24 km với 6 làn xe cơ giới đã được đầu tư hơn 100 tỷ đồng để cải tạo, mở rộng.

Bắc Ninh đề xuất chi 6.000 tỷ đồng làm 20 km tuyến cao tốc Bắc Ninh - Hạ Long

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

UBND tỉnh Bắc Ninh vừa có văn bản gửi Bộ Giao thông Vận tải, kiến nghị tự chi 6.000 tỷ đồng xây dựng 20 km đoạn tuyến Quốc lộ 18 cao tốc Bắc Ninh - Hạ Long đi qua địa phận tỉnh này. Hình thức đầu tư là xây dựng - chuyển giao (BT). Trong đó, chi phí xây dựng là 3.500 tỷ đồng, giải phóng mặt bằng 1.500 tỷ đồng, dự phòng 790 tỷ đồng và chi phí khác 210 tỷ đồng. Bắc Ninh đề nghị Bộ quan tâm, xem xét cho ý kiến để dự án sớm được triển khai thực hiện.

Tuyến Quốc lộ 18 cao tốc Bắc Ninh - Hạ Long được Thủ tướng phê duyệt tháng 3/2016 trong tổng tuyến Nội Bài (Hà Nội) - Bắc Ninh - Hạ Long (Quảng Ninh) dài 176 km. Tuyến cao tốc này là một trong 14 tuyến cao tốc khu vực phía Bắc hướng tâm kết nối thủ đô Hà Nội.

Riêng chiều dài đoạn tuyến đi qua tỉnh Bắc Ninh là 24 km với quy mô 6 làn xe cơ giới, 2 dải cây xanh và đường gom 2 bên. Hiện nay, đoạn tuyến qua tỉnh này đã được đầu tư hơn 100 tỷ đồng để cải tạo, mở rộng và hoàn chỉnh nút giao với Quốc lộ 1A. Song, lưu lượng phương tiện lớn, tuyến đường đã quá tải, thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Trong khi đó, kế hoạch đầu tư dự án Quốc lộ 18 nói trên lại chưa xác định nên tỉnh dự kiến tự đầu tư.

Theo CafeF

Tổng cục Hải quan vừa công cố số liệu thống kê sơ bộ về tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam cho thấy, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 10 (từ ngày 16-31/10) đạt 24,74 tỷ USD, tăng 17,8%, tương ứng tăng 3,74 tỷ USD so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 10/2019.

Theo đó, kết quả đạt được trong nửa cuối tháng 10 đã đưa tổng trị giá xuất nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng đạt 428,63 tỷ USD, tăng 8%, tương ứng tăng 31,7 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2018. 

Con số trên đã đưa cán cân thương mại hàng hóa thặng dư 1,53 tỷ USD trong kỳ 2 tháng 10, qua đó đưa mức thặng dư thương mại hàng hóa của của Việt Nam trong 10 tháng của năm 2019 lên đến 9,01 tỷ USD.

Tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 10 năm 2019 đạt 13,13 tỷ USD, tăng 27,3% (tương ứng tăng 2,82 tỷ USD về số tuyệt đối) so với kỳ 1 tháng 10/2019. Như vậy, tính đến hết tháng 10 năm 2019, tổng trị giá xuất khẩu của Việt Nam đạt 218,82 tỷ USD, tăng 8,3%  tương ứng tăng 16,7 tỷ USD so với 10 tháng/2018.

Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 271,13 tỷ USD, tăng 4,3% (tương ứng tăng 11,22 tỷ USD); trị giá xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước là 157,5 tỷ USD, tăng 14,9% (tương ứng tăng 20,48 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2018. Những mặt hàng xuất khẩu bứt phá mạnh nhất trong nửa cuối tháng 10 là điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; giày dép; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng…

Biểu đồ 1: Trị giá xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất 10 tháng/2019 so với cùng kỳ năm 2018

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy trị giá xuất khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong kỳ 2 tháng 10/2019 đạt 8,9 tỷ USD, tăng 27,7%, tương ứng tăng 1,93 tỷ USD so với kỳ 1 tháng 10/2019, qua đó nâng tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa trong 10 tháng năm 2019 của nhóm các doanh nghiệp này lên 149,83 tỷ USD, tăng 4,8% (tương ứng tăng 6,93 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước, chiếm 68,5% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.

Về nhập khẩu, tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam trong kỳ 2 tháng 10/2019 đạt 11,61 tỷ USD, tăng 8,6% (tương ứng tăng 923 triệu USD về số tuyệt đối) so với kết quả thực hiện trong nửa đầu tháng 10/2019.

Trị giá nhập khẩu hàng hóa trong kỳ 2 tháng 10/2019 tăng so với kỳ 1 tháng 10/2019 chủ yếu ở một số nhóm hàng sau: máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng tăng 253 triệu USD, tương ứng tăng 17,4%; xăng dầu các loại tăng 250 triệu USD, tương ứng tăng 130,6%;%; than các loại tăng 115 triệu USD, tương ứng tăng 110,4%; ngô tăng 91 triệu USD, tương ứng tăng 104%...

Như vậy, tính đến hết tháng 10/2019, tổng trị giá nhập khẩu của cả nước đạt 209,81 tỷ USD, tăng 7,7% (tương ứng tăng 15 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2018.

Biểu đồ 2: Trị giá nhập khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất trong 10 tháng/2019 so với cùng kỳ năm 2018

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Trong đó, trị giá nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp FDI trong kỳ này đạt 6,32 tỷ USD, tăng 3,6% (tương ứng tăng 219 triệu USD) so với kỳ 1 tháng 10/2019, qua đó nâng tổng trị giá nhập khẩu trong 10 tháng năm 2019 của nhóm các do​anh nghiệp này lên 121,30 tỷ USD, tăng 3,7% (tương ứng tăng 4,3 tỷ USD) so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 57,8% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước.

Theo Tổng cục Hải quan, chu kỳ xuất khẩu các mặt hàng như: Dệt may, gỗ và sản phẩm gỗ, nông, thủy sản… thường ở mức cao trong giai đoạn cuối năm do nhu cầu hàng hóa phục vụ các ngày lễ tết tăng cao. Việt Nam đang tận dụng tốt các cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do để mở rộng xuất khẩu. Cùng với việc tận dụng tốt các cơ hội từ các FTA, xuất khẩu cũng nhận được nhiều thuận lợi từ các nỗ lực cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh trong nước.

Ngoài ra, trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 được công bố gần đây, Việt Nam tăng 10 bậc và lên thứ hạng 67, vượt trước một quốc gia lớn như Ấn Độ. Mặc dù Việt Nam vẫn đang xếp sau một số quốc gia Đông Nam Á (trong bảng xếp hạng Singapore ở vị trí dẫn đầu và Philippin vị trí 64), song không nước nào có thể cải thiện thứ hạng ấn tượng như vậy chỉ trong một năm.

Với những yếu tố này, kỳ vọng kim ngạch xuất nhập khẩu năm nay có thể đạt 500 tỷ USD vẫn còn nhiều hy vọng đạt được.

Theo Tạp Chí Tài Chính

Đối tác chiến lược