Nguyễn Ngọc Thảo

Nguyễn Ngọc Thảo

Thứ sáu, 23 Tháng 8 2019

Kêu gọi đầu tư vào TP HCM

TP HCM cam kết lấy sự hài lòng của doanh nghiệp làm tiêu chí cho mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư của TP.

Ngày làm việc thứ hai tại Indonesia (22-8), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Thiện Nhân và đoàn lãnh đạo cấp cao của TP đã nghe đại diện Dự án NCICD (National Capital Integrated Coastal Developmen, quốc gia tích hợp phát triển ven biển) trình bày về Seawall (bức tường ven biển để chống ngập).

55 tỉ USD làm "lá chắn"

Dự án có chiều dài 120 km xây dựng đê ven biển, ven sông, qua 3 giai đoạn: xây dựng đê ven biển, đê ngoài biển phía Tây và cuối cùng là xây dựng đê ngoài biển phía Đông. Ngoài ra, công trình này còn tích hợp xây dựng công trình giao thông, phát triển cơ sở hạ tầng... Tổng kinh phí dự án là 55 tỉ USD.

Trong năm 1990, khoảng 12% diện tích (khoảng 1.600 ha đất) ở phía Bắc Jakarta nằm dưới mực nước biển. Tuy nhiên, vào năm 2030, ước tính gần 90% diện tích (12.500 ha đất) ở Bắc Jakarta sẽ nằm dưới mực nước biển. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được cho là do xây dựng thiếu quy hoạch và triển khai tràn lan các hệ thống ống cống, khai thác nước ngầm…

Năm 2007, Indonesia gặp cơn bão đi kèm thủy triều dâng khiến gần 1/2 Jakarta bị ngập trong 4 m nước. Sau cơn bão, vài phương án được đưa ra nhưng không khả thi. Cho đến năm 2019, Indonesia thực hiện kế hoạch tổng thể phát triển đê biển tại thủ đô Jakarta nhằm kiểm soát sụt lún mặt đất, phòng chống lũ lụt từ biển và sông cho Jakarta. Dự án có sự hợp tác giữa Indonesia, Hà Lan và Hàn Quốc. Đây được xem là giải pháp tích hợp phòng chống ngập lụt, tiến tới chấm dứt tình trạng khai thác nước ngầm. Theo đó, một hệ thống đê khổng lồ gồm 60 km đê biển, 60 km đê sông được triển khai thực hiện từ năm 2019-2050. Hệ thống đê biển này sẽ tích hợp các chức năng như ngăn nước biển dâng, làm hồ chứa nước và phát triển các công trình giao thông, nhà ở phía trên. Cũng theo tính toán của nhóm chuyên gia, chỉ cần đầu tư khoảng 8 tỉ USD để thực hiện dự án thì có thể thu khoảng 55 tỉ USD lợi ích kinh tế từ dự án.

Trước khi tiến hành dự án xây tường chống ngập, giới chức Indonesia cũng phải tiến hành khảo sát hiện trạng sụt lún của Jakarta đến năm 2025. Chi phí cho các cuộc khảo sát được cho là lên tới khoảng 7,7 tỉ USD. Ngoài ra, chính quyền thành phố cũng có thể thực hiện chính sách kiểm soát việc sử dụng các nguồn nước ngầm bằng cách cải thiện hệ thống cung cấp nước sạch sinh hoạt. Hiện nay, Indonesia đang xây dựng 20 km đê biển, có một số cầu nên tuyến đê còn hở. Việc xem xét khép kín hệ thống đê sẽ được cân nhắc tùy thuộc vào thực tế về tình trạng ngập lụt và sụt lún mặt đất. Để có nguồn kinh phí đầu tư thực hiện các dự án đê biển, một giải pháp được đề xuất là yêu cầu các đối tượng hưởng lợi từ dự án đê này có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho việc thực hiện dự án. Đồng thời, thực hiện dự án theo phương thức hợp tác công tư. Thêm vào đó, việc xây dựng đê đa dụng cũng giúp phát triển dân cư, thương mại và phát triển đường vành đai.

 Kêu gọi đầu tư vào TP HCM - Ảnh 1.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Thiện Nhân thăm thực địa MRT và hệ thống xe buýt Transjakarta Ảnh: TỐ TRÂM

Tạo thuận lợi cho DN đến TP HCM làm ăn

Cũng trong sáng 22-8, đoàn đã đến thăm văn phòng, thực địa MRT (giao thông công cộng cao tốc) và hệ thống xe buýt Transjakarta. Thủ đô Jakarta hiện có khoảng 28 triệu dân, 10 triệu phương tiện giao thông. Tắc nghẽn giao thông đe dọa nghiêm trọng đối với hoạt động của Jakarta. Vì vậy, mục tiêu đặt ra là tăng tỉ lệ di chuyển công cộng từ 23% hiện nay lên 60% vào năm 2030.

Để đạt được mục tiêu này, Indonesia phải thay đổi cách quản lý bằng việc ứng dụng công nghệ, tích hợp dữ liệu vận tải công cộng và cá nhân để có dữ liệu tổng hợp, toàn diện cho hệ thống giao thông đường bộ; điều hành hệ thống sẽ có một trung tâm giám sát. Ngoài xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, thu phí đậu xe thì phân tuyến xe buýt hợp lý cho các tuyến đường đông khách, huy động taxi vào hợp tác xã (mặc đồng phục, nhà nước trả lương) để đón khách từ các con hẻm, không sử dụng xe buýt quá 10 tuổi, có đường dành riêng cho xe buýt... Mỗi năm nhà nước bỏ ra 300 triệu USD để "mua chỗ cho người dân đi" (trợ giá vận tải công cộng).

Chiều cùng ngày, Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân đã gặp gỡ doanh nghiệp (DN) Indonesia tại Hội nghị xúc tiến đầu tư vào TP HCM. Trao đổi tại hội nghị, ông Võ Văn Hoan, Phó Chủ tịch UBND TP HCM, cung cấp thông tin về TP cho DN Indonesia. "Tại TP HCM, tính đến hết năm 2018, Indonesia có 33 dự án đầu tư tại TP HCM với tổng vốn là 28 triệu USD. Kim ngạch thương mại hai chiều TP HCM - Indonesia được duy trì ổn định, đạt hơn 1 tỉ USD. TP đã đón gần 16.000 lượt khách Indonesia đến thăm trong năm 2018. Đề án đô thị thông minh đang là hành trình đột phá của TP. TP HCM sẽ đổi mới cơ chế, cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho DN nước ngoài làm ăn lâu dài và hiệu quả tại TP" - ông Võ Văn Hoan nói. Nhiều DN Indonesia cũng quan tâm đến vấn đề đầu tư vào bệnh viện, điều kiện hoạt động của bác sĩ nước ngoài tại Việt Nam, nhập khẩu dược phẩm, xây dựng nhà máy sữa....

Phát biểu kết thúc buổi gặp gỡ, Bí thư Thành ủy Nguyễn Thiện Nhân nhắn gửi: "Sự phát triển của TP có được là nhờ vào sự đóng góp tích cực của các DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có DN Indonesia. TP ghi nhận sự đóng góp đó. TP luôn tạo thuận lợi cho các DN hoạt động tại TP, mang lại lợi ích cho cả hai bên. TP cam kết lấy sự hài lòng của DN là tiêu chí cho mục tiêu cải thiện môi trường đầu tư của TP".

Theo CafeF

 

 

 

Với hầu hết các hiệp định thương mại (FTA) đã ký, Việt Nam thường nhập siêu, thì nay, khi thực hiện CPTTP, trong 7 tháng năm 2019, Việt Nam đã chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu.

Số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất nhập siêu của Việt Nam với 10 nước còn lại trong CPTTP của 7 tháng năm 2018 và 7 tháng năm 2019 như sau:

 Xuất nhập khẩu, xuất nhập siêu của Việt Nam với 10 nước còn lại của CPTTP (triệu USD). Nguồn: TCHQ.

Xuất nhập khẩu, xuất nhập siêu của Việt Nam với 10 nước còn lại của CPTTP (triệu USD). Nguồn: TCHQ.

Xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang 10 nước tham gia CPTTP đạt quy mô khá, chiếm trên 15,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số thị trường đạt quy mô khá lớn. Trong 27 thị trường xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD, thì khu vực này chiếm 6, có tỷ lệ so với tổng số thị trường khu vực này cao hơn tỷ lệ tương ứng của tổng số.

Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường này tuy thấp hơn tốc độ tăng chung (7,5% so với 7,8%), nhưng tăng là sự khác biệt so với khi mở cửa với Trung Quốc (năm 1991), với Thái Lan (năm 1995), với Hàn Quốc (năm 2018) - khi đó xuất khẩu giảm hoặc tăng thấp, trong khi nhập khẩu tăng cao, làm cho nhập siêu tăng.

Tổng mức tăng của các thị trường này đạt 156,5 triệu USD, trong đó có một số thị trường có mức tăng khá, như Nhật Bản 1.010 triệu USD, Canada 546 triệu USD, Mexico 290 triệu USD.

Riêng xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng vào Trung Quốc gặp khó khăn do nước này thay đổi chính sách nhập khẩu tiểu ngạch, nhưng thị trường 10 nước còn lại của CPTTP lại đạt mức khá, trong đó đứng đầu là Nhật Bản, tiếp đến là Malaysia, Canada, Australia, Singapore, Mexico, New Zealand, Chile, Peru, Brunei, góp phần giảm bớt sự sụt giảm từ thị trường Trung Quốc.

Nhập khẩu của Việt Nam từ các thị trường này so với cùng kỳ năm trước giảm 2,3%, hay giảm 503 triệu USD. Có một số thị trường giảm (như Mexico 659 triệu USD, Singapore 490 triệu USD, Malaysia 219 triệu USD)...

Chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu

Do xuất khẩu của Việt Nam vào 10 nước tham gia CPTTP tăng, trong khi nhập khẩu từ đây giảm, nên nếu cùng kỳ năm trước Việt Nam ở vị thế nhập siêu, thì 7 tháng năm nay đã xuất siêu ở mức khá.

Trong 10 thị trường trên, Việt Nam ở vị thế xuất siêu với 5 thị trường và cả 5 thị trường này đều ở mức trên 100 triệu USD, lớn nhất là Canada, tiếp đến là Mexico, Nhật Bản, Chile, Peru. Đáng lưu ý, mức xuất siêu đều cao hơn cùng kỳ năm trước, đặc biệt là Nhật Bản đã chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu khá lớn.

Các diễn biến trên là kết quả tích cực của việc CPTTP được thực hiện. Kết quả càng có ý nghĩa khi được thể hiện ngay trong những tháng đầu tiên thực hiện. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam một mặt đã tranh thủ tốt hơn về thị trường với cơ hội thuế suất thuế nhập khẩu vào các nước này được giảm thiểu, mặt khác đây cũng là các thị trường có thể góp phần để Việt Nam có điều kiện để xử lý được khó khăn trong xuất khẩu nông, lâm, thủy sản với Trung Quốc.

Mặc dù đạt được kết quả tích cực, nhưng đó chỉ là bước đầu, chưa thể chủ quan. Xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường còn bị giảm (với Australia giảm 373 triệu USD, Malaysia giảm 122 triệu USD); nhập khẩu từ một số thị trường tăng (Australia, Canada, Peru, Brunei); còn nhập siêu từ một số thị trường (như Malaysia, Australia, Singapore, Brunei, New Zealand). Đáng lưu ý, với Australia năm trước xuất siêu, nay nhập siêu, còn với Brunei là nhập siêu tăng.

Ngoài ra, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam còn thấp so với tổng nhập khẩu của các thị trường này. Tốc độ tăng xuất khẩu vào các thị trường này còn thấp hơn tốc độ tăng chung của tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tác động đến việc thực hiện kế hoạch tăng trưởng xuất khẩu chung...

Theo Tạp Chí Tài Chính

Khi mà Mỹ và Trung Quốc đang bị cuốn vào cuộc chiến thương mại đầy căng thẳng, nhiều người tin rằng đã đến lúc Việt Nam tỏa sáng.

Thế nhưng, có lẽ sẽ cần phải mất nhiều năm Việt Nam và nhiều địa điểm sản xuất khác trong khu vực có thể thay Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới, theo Wall Street Journal nhấn mạnh trong bài báo mới được đăng tải.
Theo bài báo này, ở Việt Nam, hiện tại khó có thể có được chuỗi cung ứng đặc biệt, chuyên biệt hóa đã giúp Trung Quốc trở thành cường quốc sản xuất điện thoại thông minh, thang nhôm, máy hút bụi cũng như nhiều sản phẩm khác. Ngoài ra cũng không hề dễ tìm kiếm các nhà máy có chứng nhận an toàn chuyên phục vụ cho thị trường Mỹ cũng như nhiều loại máy móc đắt đỏ cần đầu tư nhiều về vốn. 
Và ngoài ra, với dân số chưa bằng 1/10 của Trung Quốc, Việt Nam hiện cũng đang đối diện với thực tế thiếu lao động trong bối cảnh nhiều nhà sản xuất toàn cầu chạy đua mở nhà máy tại đây nhằm tránh thuế cao từ Mỹ.
Wall Street Journal: Việt Nam đối mặt nhiều thách thức khi trở thành công xưởng của thế giới

Sự phát triển của các nhà cung cấp trong ngành công nghiệp không thể diễn ra trong một sớm một chiều.

Giám đốc phụ trách hoạt động của một nhà máy sản xuất thiết bị công nghiệp, ông Wing Xu, nhận xét rằng Trung Quốc đã có một hệ thống hoạt động lâu năm, và rằng bất kỳ cái gì doanh nghiệp muốn, họ có thể đã có sẵn nhà cung cấp trên thị trường.
Cũng chính nữ giám đốc này cho rằng, không phải cứ đơn thuần muốn là chuyển được sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam và tin sẽ có thể kiếm được bất kỳ cái gì mình muốn.
Một số công ty chuyển sản xuất sang các nước Đông Nam Á hoặc nơi khác, một số khác vẫn tiếp tục sản xuất tại Trung Quốc để phục vụ cho người Trung Quốc cũng như thị trường ngoài Mỹ - chiến lược họ gọi đến với cái tên Trung Quốc cộng Một. Một số nhà máy khác với đơn hàng lớn đang hy vọng nhà cung cấp của họ cũng sẽ chuyển sản xuất cũng chuyển khỏi Trung Quốc.
Kết quả, một cục diện mới của ngành sản xuất toàn cầu đang hình thành. Hoạt động sản xuất được đưa ra khỏi Trung Quốc và được chia vào nhiều nước đang phát triển, một tỷ lệ nhỏ được đưa trở về Mỹ bởi nó hoạt động dựa trên công nghệ tự động hóa. 
Sự phát triển của các nhà cung cấp trong ngành công nghiệp không thể diễn ra trong một sớm một chiều. Việt Nam có dân số gần 100 triệu người, thế nhưng quy mô như vậy vẫn quá nhỏ so với 1,3 tỷ người của Trung Quốc, hệ thống đường sá và cầu cảng của Việt Nam hiện vốn đã quá đông đúc.
Nhìn sang Ấn Độ, quốc gia này có đủ nhân lực thế nhưng trình độ tay nghề còn thấp và các quy định của chính phủ được đánh giá không mấy thông thoáng.
Một chuyên gia kinh tế và tư vấn chiến lược tại Control Risks nói: “Mọi người đang cùng đặt câu hỏi: “Giờ chúng ta nên đi đâu?”. Câu trả lời chưa thể rõ ràng”.
Công ty sản xuất máy ảnh GoPro đang chuyển hoạt động sản xuất phục vụ cho thị trường Mỹ sang Mexico, tuy nhiên vẫn còn duy trì hoạt động sản xuất tại Trung Quốc để bán hàng cho một số thị trường khác.
Công ty Universal Electronics, trụ sở tại Arizona – Mỹ, chuyên sản xuất thiết bị công nghệ cho nhà thông minh, mới đây đã có thêm đối tác tại Philippines và đồng thời mở rộng hoạt động tại Mexico.
Công ty Techtronic Industries niêm yết trên sàn chứng khoán Hồng Kông chuyên sản xuất máy hút bụi sẽ thành lập nhà máy mới ở Việt Nam cũng như mở rộng hoạt động tại nhà máy ở Mississippi. Công ty sẽ duy trì sản xuất ở Trung Quốc thêm ít nhất một thập kỷ.
Ở một thực tế khác, mô hình phát triển của ngành sản xuất Trung Quốc 20 năm qua dựa trên việc các nhà cung cấp rất gần nhau, sản xuất vì vậy được đẩy nhanh hơn về thời gian. Giờ đây, hoạt động sản xuất bị phân tách nhiều hơn, điều này đe dọa đẩy cao chi phí, kéo dài thời gian vận chuyển và khiến cho nhiều công ty phải giải quyết vấn đề phát sinh từ nhiều hệ thống thuế quan và chế độ lao động.
Các doanh nghiệp giờ đây đang phải chú tâm nhiều hơn đến tỷ lệ nội địa hóa sản xuất để sản phẩm có thể được gọi là “Sản xuất tại Việt Nam”, theo phân tích của chuyên gia kinh tế chuyên mảng sản xuất tại Harvard Business School, ông Willy C. Shih. Ông Willy C. Shih cũng cho rằng quy định về môi trường cũng sẽ bị siết hơn, thời đại của những quy định môi trường lỏng lẻo giờ đã qua rồi.
Theo Wall Street Journal, Việt Nam rõ ràng chờ đợi cơ hội này đã lâu. Hoạt động của một số ngành thâm dụng lao động đã được chuyển sang Việt Nam từ nhiều năm trước khi mức lương lao động tại Trung Quốc ngày một tăng. Đơn cử như Samsung Electronics đã đầu tư nhiều tỷ USD vào Việt Nam.
Việt Nam còn đang muốn mở rộng hơn nữa hoạt động của các ngành điện tử và kỹ thuật - nấc thang cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Theo Bizlive.vn 

Để triển khai thi hành Luật Kiến trúc kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Kiến trúc.

Theo đó, năm 2019 và các năm tiếp theo, tổ chức quán triệt, tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật.

Tổ chức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến Luật Kiến trúc; đề xuất hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm phù hợp, thống nhất với Luật Kiến trúc. Kết quả rà soát của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan có liên quan gửi về Bộ Xây dựng trước ngày 31/3/2020.

Bộ Xây dựng chủ trì xây dựng, trình Chính phủ Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc (khoản 5 Điều 13, khoản 5 Điều 14, khoản 1 Điều 15, khoản 8 Điều 17, khoản 3 Điều 22, khoản 3 Điều 23, khoản 4 Điều 26, khoản 5 Điều 29, khoản 4 Điều 30, khoản 3 Điều 31) vào tháng 3/2020.

Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng chủ trì xây dựng Thông tư của Bộ trưởng Bộ Xây dựng quy định chi tiết thi hành một số điều và biện pháp thi hành Luật (2 văn bản): Thông tư quy định chi tiết hồ sơ thiết kế kiến trúc; Thông tư quy định về mẫu chứng chỉ hành nghề; xây dựng cơ sở dữ liệu về kiến trúc và hành nghề kiến trúc trong cả nước; xây dựng mẫu thiết kế kiến trúc đáp ứng tiêu chí bền vững, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và phòng, chống thiên tai; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chủ trì xây dựng quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc đô thị chuyển đổi sang Quy chế quản lý kiến trúc (hoàn thành 31/12/2021); quy chế quản lý kiến trúc (hoàn thành từ ngày 1/7/2020 và các năm tiếp theo).

Luật kiến trúc số 40/2019/QH14 được Quốc hội Khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13/6/2019, có hiệu lực từ ngày 1/7/2020. Luật Kiến trúc có 5 chương với 41 điều quy định về quản lý kiến trúc, hành nghề kiến trúc; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiến trúc.

Theo Báo Chính Phủ

Trong 6 tháng đầu năm 2019, các khu công nghiệp, khu kinh tế đã thu hút được khoảng 340 dự án đầu tư nước ngoài.

Ước tính trong 6 tháng đầu năm 2019, các khu công nghiệp (KCN), khu kinh tế (KKT) đã thu hút được khoảng 340 dự án đầu tư nước ngoài (ĐTNN) với số vốn đăng ký mới đạt khoảng 8,7 tỷ USD.

Theo báo cáo của Vụ Quản lý khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế tổng số các dự án vốn ĐTNN vào Việt Nam lên khoảng 8.900 dự án với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 186 tỷ USD.

Đối với các dự án đầu tư trong nước (ĐTTN), trong 6 tháng đầu năm 2019, các KCN, KKT đã thu hút được khoảng 334 dự án với tổng vốn đăng ký mới đạt khoảng 82,9 nghìn tỷ đồng. Lũy kế tổng số các dự án vốn ĐTTN lên khoảng 9.086 dự án với tổng vốn đăng ký đạt khoảng 2.060,5 nghìn tỷ đồng.

Tính đến hết tháng 6 năm 2019, có hơn 3,6 triệu lao động đang làm việc tại các KCN, KKT, trong đó số lao động nữ chiếm khoảng 60%.

Hiện có 326 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên đạt xấp xỉ 95,5 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 65,6 nghìn ha, chiếm khoảng 68,7%.

Trong 326 KCN được thành lập, có 251 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 66,2 nghìn ha, tỷ lệ lấp đầy đạt gần 74% và 75 KCN đang trong giai đoạn đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng với tổng diện tích khoảng 29,3 nghìn ha.

Hiện có 17 KKT ven biển đã được thành lập với tổng diện tích mặt đất và mặt nước khoảng hơn 845 nghìn ha. Ngoài ra, KKT Ninh Cơ (tỉnh Nam Định) nằm trong quy hoạch phát triển các KKT nhưng chưa được thành lập.

Lũy kế đến tháng 6 năm 2019, có 38 KCN nằm trong KKT với tổng diện tích khoảng 15,2 nghìn ha. Trong đó, 17 KCN đang hoạt động có tổng diện tích khoảng 6,9 nghìn ha và 21 KCN đang xây dựng cơ bản với tổng diện tích khoảng 8,3 nghìn ha.

Dự kiến đến hết tháng 6 năm 2019, có 221/251 KCN đang hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung, đạt tỷ lệ 88%.

Nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra quan tâm nhiều đến các khu kinh tế và khu công nghiệp tại Việt Nam

Nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra quan tâm nhiều đến các khu kinh tế và khu công nghiệp tại Việt Nam

Dữ liệu về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nửa đầu năm nay cũng vừa được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) công bố, cho thấy dòng vốn ngoại tiếp tục đổ về Việt Nam, trong bối cảnh xung đột thương mại và địa chính trị tiếp tục xảy ra ở nhiều nước trên thế giới và dự báo kinh tế toàn cầu tăng chậm lại.

Tính đến 20/6/2019, cả nước thu hút được tổng cộng 18,47% vốn FDI đăng ký, giảm 9,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong khi, con số giải ngân đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ.

Nửa năm qua, các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành, lĩnh vực, trong đó tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng số vốn đạt 13,15 tỷ USD, chiếm 71,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. 
Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 1,32 tỷ USD, chiếm 7,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký 1,05 tỷ USD, chiếm 5,7% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Khoảng 95 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Trong đó, Hồng Kông dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,3 tỷ USD (trong đó, có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào Công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội), chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,73 tỷ USD, chiếm 14,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.

Trung Quốc đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,29 tỷ USD, chiếm 12,4% tổng vốn đầu tư. Singapore, Nhật Bản lần lượt xếp vị trí thứ tư và thứ năm với tổng vốn đăng ký 2,2 tỷ USD và 1,95 tỷ USD.

Nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 55 tỉnh, thành phố. Trong đó, Hà Nội thu hút nhiều vốn FDI nhất với tổng số vốn đăng ký hơn 4,87 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng vốn đầu tư. TP.HCM đứng thứ hai với tổng vốn đăng ký 3,09 tỷ USD, chiếm 16,7% tổng vốn đầu tư. Bình Dương đứng thứ ba với tổng số vốn đăng ký 1,37 tỷ USD chiếm 7,4% tổng vốn đầu tư.

Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, trong con số 18,47 tỷ USD nêu ở trên, có 4.020 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 8,12 tỷ USD, tăng 98,1% so với cùng kỳ năm 2018 và chiếm gần 44% tổng vốn đăng ký.

Dòng vốn này thường là thống kê lượng vốn FDI đổ vào mua từ 50% giá trị doanh nghiệp, dự án trở lên, nên nó cho thấy hoạt động thâu tóm của nhà đầu tư nước ngoài là rất lớn và đang lấn át các chủ trương đầu tư mới, mở rộng dự án cũ của nhà đầu tư nước ngoài.

Cũng trong 6 tháng đầu năm 2019, cả nước chỉ có 1.723 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký 7,41 tỷ USD, giảm tới 37,2% so với cùng kỳ năm 2018; có 628 lượt dự án đăng ký điều chỉnh với tổng vốn đăng ký tăng thêm 2,94 tỷ USD, giảm 33,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Theo Reatimes.vn

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động, VDSC tin rằng Việt Nam sẽ vượt qua khó khăn và tiếp tục tăng trưởng ổn định trong vài năm tới.

Theo Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt, (VDSC) việc tăng trưởng GDP của Singapore sụt giảm gần đây không chỉ phản ánh hệ quả tất yếu của cuộc chiến thương mại mà còn vẽ ra một bức tranh ảm đạm cho nền kinh tế toàn cầu. Các cuộc khảo sát chỉ ra góc nhìn tương đối bi quan và cẩn trọng của khu vực doanh nghiệp với bối cảnh kinh tế và kế hoạch mở rộng đầu tư sắp tới của họ. Do đó, VDSC cho rằng việc gia tăng tầm quan trọng của “bàn tay hữu hình”, được đề cập bởi nhà kinh tế học John Maynard Keynes, có thể là một điều tốt.

Điều này hàm ý sự phối hợp của “bàn tay” tài chính và tiền tệ theo hướng hỗ trợ trong bối cảnh khả năng lãi suất đã dần tới giới hạn. Sự kết hợp trên không phổ biến trong lịch sử và gợi lại chiến lược “tiền trực thăng” (Helicopter money) được đề xuất bởi cựu chủ tịch FED Ben Bernanke năm 2002.

Theo chiến lược này, việc cắt giảm thuế trên diện rộng, được hỗ trợ bởi một chương trình mua tài sản trên thị trường nhằm giảm bớt mọi xu hướng tăng lãi suất, gần như sẽ là một động lực đối với tiêu dùng và tăng giá cả. Ngay cả khi các hộ gia đình quyết định không tăng tiêu dùng mà thay vào đó tái cân bằng danh mục bằng cách sử dụng thêm tiền mặt để sở hữu thêm tài sản thực và tài chính. Kết quả của việc tăng giá trị tài sản sẽ làm giảm chi phí vốn và cải thiện tình hình bảng cân đối kế toán riêng của người vay tiềm năng. Tài trợ giảm thuế bằng cách cung tiền tương tự như khái niệm “tiền trực thăng” của Milton Friedman.

Trong khi đó, việc chuyển hướng và củng cố lại vai trò của chính sách tài khóa trong việc dẫn dắt nền kinh tế toàn cầu là cần thiết khi các chi phí vay của Chính phủ đã giảm và lãi suất ít hỗ trợ cho nền kinh tế hơn so với trước đây. Chính phủ nên tập trung vào các dự án đầu tư thay vì các khoản chi tiêu khác. Trong những trường hợp này, chính sách tài khóa và tiền tệ nên thực hiện theo cùng một định hướng để kích thích tăng trưởng.

VDSC: Kinh te Viet Nam se tiep tuc tang truong on dinh trong thoi gian toi

Chỉ số nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 2015 - 2018. Ảnh: VDSC

Tuy nhiên, có những mặt lợi ích và hạn chế. Một mặt, việc nới lỏng các chính sách tài khóa về cơ bản cần thời gian ngắn hơn để ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế. Song trong ngắn hạn, điều đó làm cho một nền kinh tế tăng nóng, đẩy lạm phát vượt quá mục tiêu dự định của nó. Mặt khác, chi tiêu tài khóa không được kiểm soát có thể làm tổn hại đến uy tín của chính phủ và ảnh hưởng đến triển vọng dài hạn. Do đó, tác động lên một quốc gia riêng lẻ sẽ phụ thuộc vào khả năng phản ứng của nó. Sự phối hợp độc đáo cần được thực hiện một cách cẩn thận và có chiến lược cho“lối thoát”.

Đối với Việt Nam, các số liệu kinh tế được công bố gần đây cho thấy không có nhiều xáo trộn. Và “Việt Nam vẫn đang là ngôi sao sáng trong khu vực với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định”, theo nhận định mà VDSC, đưa ra trong một báo cáo mới công bố.

Trong nhiều năm, Chính phủ đã thiết lập một hoạch định tài chính được cân nhắc kỹ lưỡng để đối phó với sự chững lại trong tương lai.

Báo cáo cập nhật mới nhất cho thấy tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam giảm xuống 58,4%, thấp hơn mức cao nhất 63,7% trong năm 2016. Các nhà hoạch định chính sách sẽ cần thận trọng hơn trong giai đoạn 2019-2022 khi nền kinh tế bị ảnh hưởng bất lợi và hơn 1/3 nợ công sẽ đáo hạn.

Tuy nhiên, có những lý do để tin rằng Việt Nam sẽ có thể vượt qua khó khăn. Chính phủ đã hoàn thành hơn 90% kế hoạch thoái vốn ban đầu về mặt giá trị trong khi luật mới về đầu tư công sẽ có hiệu lực vào đầu năm 2020. Cùng với đó, Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ sự thay đổi nào về chính sách lãi suất kể từ khi bắt đầu cuộc chiến thương mại. Lãi suất thực vẫn dương trong khi lãi suất trái phiếu chính phủ đã bắt đầu có xu hướng giảm lại.

VDSC nhận định, nền kinh tế Việt Nam hội tụ đủ những điều kiện để tiếp tục tăng trưởng ổn định trong vài năm tới.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Cơ sở hạ tầng phát triển bứt phá trong thời gian qua được xem là lý do chính “kích thích” cho thị trường BĐS Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó các khu vực như Long Điền, Phú Mỹ, Tân Thành được hưởng lợi nhiều nhất. Giá đất ở những khu vực này có sự biến động tăng trung bình khoảng 20% so với cách đây 1 năm.

Nguồn cung mới

Nhiều doanh nghiệp BĐS đang cùng lúc tấn công thị trường BĐS Bà Rịa - Vũng Tàu - nơi được dự báo là điểm nóng về BĐS vùng giáp ranh Tp.HCM trong thời gian tới nhờ lợi thế về kết nối hạ tầng và đứng hạng cao về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Các dự án mới từ các chủ đầu tư bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều tại thị trường này, nhiều dự án đang manh nha hình thành từ thời điểm tháng 4/2019 đến nay.

Những khu vực giao dịch sôi động trên thị trường nhà đất Bà Rịa - Vũng Tàu - Ảnh 1.

Bất động sản Vũng Tàu ở một số khu vực đang có sự biến động tăng giá

Nguồn cung mới này có thể kể đến như dự án Bà Rịa Gold City tọa lạc tại Phước Tỉnh, huyện Long Điền với hơn 200 nền đất đang được chào giá từ 9.5 triệu đồng/m2. Được biết, đây là dự án nằm ngay mặt tiền đường tỉnh lộ 44A ( 40m lộ giới) kết nối từ Tp.Bà Rịa ra biển Long Hải; Dự án KDC Moon Lake cũng ở Long Điền có giá đất nền dao động từ 9-15 triệu đồng/m2;

Ở Phú Mỹ, một dự án mới cũng vừa mới cung cấp ra thị trường vào tháng 6 vừa qua với giá đất vào khoảng 8,5 triệu đồng/m2;

Ở Hồ Tràm, biệt thự biển, shophouse ở dự án NovaWorld của tập đoàn Novaland cũng đang thu hút mạnh giới đầu tư TP.HCM và Hà Nội;

Mới đây, một dự án “mới tinh” cũng được giới đầu tư quan tâm là Châu Pha Garden House ở Châu Pha, được chào với mức giá khởi điểm vớ khoảng 3.2 triệu đồng/m2, tức khoảng trên dưới 1 tỉ đồng/căn...

Hầu hết các sản phẩm đất nền đều được các nhà đầu tư quan tâm giao dịch, nhiều dự án có giao dịch diễn ra khá sôi động.

Trước đó, thị trường nơi đây cũng đã chứng kiến làn sóng đầu tư dự án quy mô của các CĐT lớn. Đơn cử như Tập đoàn Hưng Thịnh đã chi gần 1.000 tỷ đồng để mua 4 dự án tại Bà Rịa -Vũng Tàu, Công ty Địa ốc Việt Hân đang triển khai 2 dự án lớn có tổng mức đầu tư lên tới 2 tỷ USD; Công ty Gia Long, Công ty Nam Hải với dự án Gia Long Villas và Khu biệt thự cửa biển Marine, Tập đoàn Tuần Châu cũng triển khai dự án tỷ đô tại đây…

Đây cũng chính là khu vực được đánh giá có nguồn cung BĐS dồi dào, đặc biệt ở phân khúc BĐS hướng đến nhu cầu nghỉ dưỡng, du lịch trong khoảng 2-3 năm trở lại đây. Dòng vốn đổ về thị trường mới nổi này đến từ yếu tố hạ tầng được đầu tư chỉn chu, đồng bộ những năm qua. Hầu hết các vị trí dự án CĐT nhắm để triển khai dự án đều dễ dàng kết nối với các tuyến giao thông huyết mạch như tuyến đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu, cao tốc Tp.HCM - Long Thành - Dầu Giây và cách sân bay Quốc Tế Long Thành chỉ 30 phút. Theo các chuyên gia, chính yếu tố hạ tầng đã kích thích cho giá BĐS nơi đây tăng trưởng đều đặn những năm qua.

Theo khảo sát của CBRE Việt nam cho thấy, giá trị BĐS ở những vị trí vàng như Long Điền, Phú Mỹ, Tân Thành,… đều tăng từ 20%-30% trong vài năm trở lại đây. Trong đó, cá biệt có một số dự án pháp lý hoàn chỉnh, hạ tầng đồng bộ mức tăng đáng kể lên đến 40-50% trong vòng 1 năm.

Nhà đầu tư âm thầm gom đất, đầu tư dài hạn

Theo ghi nhận, hầu hết các dự án “mới tinh” manh nha ra thị trường ở thời điểm này có lượng quan tâm khá tốt từ thị trường. Hầu hết các dự án mới chào giá giai đoạn đầu còn mềm từ 6-13 triệu đồng/m2 nên đa số là NĐT khu vực lân cận như Tp.HCM, Bình Dương tìm về mua. Nhiều NĐT có vốn trường thường mua một lúc 2-3 nền, chờ thời điểm tốt bán ra.

Thực tế thị trường Bà Rịa - Vũng Tàu vào cuối tháng 7/2019 cho thấy, nếu trước đây đa số NĐT mua đất nền khu vực này là lướt sóng trong khoảng thời gian khá ngắn thì hiện tại khẩu vị có phần thay đổi, hầu hết các NĐT tìm kiếm các dự án được đầu tư về hạ tầng, tiện ích nội khu chỉn chu và đầu tư trong khoảng thời gian dài.

Với những dự án vừa có tiện ích vừa gần các tuyến đường huyết mạch kết nối lân cận tốt thì mức kì vọng lợi nhuận đầu tư trong vòng 12 tháng của NĐT có thể đạt 20-30% và tăng trưởng bền vững theo các năm. Theo ghi nhận, ở thời điểm này rất ít NĐT lướt sóng đất nền. Hầu hết họ gom đất và chờ thời điểm tương đối để ra hàng, hưởng mức chênh lệch cao.

Những khu vực giao dịch sôi động trên thị trường nhà đất Bà Rịa - Vũng Tàu - Ảnh 2.

Nhờ kích thích từ hạ tầng giao thông, nhiều doanh nghiệp lớn, nhỏ thời gian qua đã đồng loạt

tấn công thị trường BĐS Bà Rịa - Vũng Tàu, kéo theo làn sóng gom đất của NĐT tăng cao

Đối với các dự án mới chào thị trường khoảng 3-4 tháng gần đây thì việc CĐT gấp rút làm hạ tầng dự án đã tác động rõ nét đến mức giá chênh của sản phẩm theo các giai đoạn. Tìm hiểu được biết, trong vòng 3-4 tháng, các nền đất mặt tiền đường có mức chênh khoảng 10% so với thời điểm mua vào.

Có một thực tế không thể phủ nhận, gần đây thị trường BĐS Bà Rịa - Vũng Tàu đón làn sóng đầu tư mạnh mẽ của NĐT cá nhân. Từ đầu năm đến nay không nhiều dự án mới chào ra thị trường. Cho nên hầu như chỉ cần thông tin xuất hiện dự án mới là NĐT cá nhân vào tìm hiểu và “xuống tiền”. Theo giới phân tích, Bà Rịa - Vũng Tàu đang hưởng lợi thế rõ nét về hạ tầng, kinh tế nên những NĐT có kinh nghiệm nhìn đường dài thường sẽ cùng lúc vào đón sóng ở những khu vực có tiềm năng.

Bà Rịa - Vũng Tàu là địa phương có thế mạnh về khai thác kinh tế cảng biển, tỉnh có điều kiện thuận lợi nằm trên tuyến hàng hải quốc tế nối liền Bắc – Nam và Đông – Tây của thế giới (chiếm 85% vận chuyển thương mại thế giới). Theo nhìn nhận từ các nước trên thế giới, các thành phố giàu có luôn có cảng biển quốc tế, du lịch biển và giao thông đường bộ thuận lợi. Do đó, các khu vực hưởng lợi từ cảng biển này như Long Điền, Phú Mỹ sẽ có tiền đề rất lớn để phát triển, trong đó có thị trường BĐS.

Bên cạnh đó, những khu vực mà có mức độ tăng trưởng giá BĐS ấn tượng thời gian qua như Phú Mỹ, Long Điền, Tân Thành….đều là những nơi được thừa hưởng lợi thế rõ nét của Bà Rịa - Vũng Tàu. Chẳng hạn như việc sở hữu đường bờ biển hơn 28km cùng cảng cá lớn nhất tỉnh là Phước Tỉnh, Huyện Long Điền đang được xem là trung tâm phát triển, vận tải, đánh bắt hải sản, cảng biển của toàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đây là điểm nhấn về kinh tế tác động đến thị trường BĐS của khu vực.

Theo Tạp Chí Tài Chính

Chi phí lao động ở Việt Nam thấp; Tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; Mở rộng khu vực thương mại tự do… là những yếu tố góp phần tăng sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam.

Báo cáo mới nhất của Công ty Jones Lang LaSalle Việt Nam (JLL) vừa công bố cho thấy, nhiều nhà đầu tư nước ngoài đang tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư vào thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam, bởi các yếu tố sau:

Một là, chi phí lao động ở Việt Nam thấp (hiện tại chỉ bằng khoảng 30 - 40% so với Trung Quốc).

Hai là, tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm cơ hội đầu tư mới sang Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Ba là, việc Việt Nam nỗ lực ký kết các hiệp định thương mại tự do, mới nhất là ký kết Hiệp định Thương mại tự do châu Âu - Việt Nam (EVFTA) vào cuối tháng 6/2019.

Cùng với các yếu tố trên, thống kê của JLL cũng ghi nhận, tỷ lệ lấp đầy và giá thuê bất động sản công nghiệp Việt Nam cho thấy sự tăng trưởng tích cực. Cụ thể, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai là 3 thị trường công nghiệp tại khu kinh tế trọng điểm miền Nam có tỷ lệ lấp đầy trung bình, đạt 81% trong quý II/2019.

Image result for bds cong nghiep

Về mức giá, do nhu cầu thuê mặt bằng của các nhà sản xuất trong 6 tháng đầu năm 2019 tăng mạnh, nên giá thuê đất khu công nghiệp cũng bị đẩy lên cao (giá thuê đất khu công nghiệp trung bình trong quý II/2019 là 95 USD/m2/chu kỳ thuê, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm 2018).

Theo JLL, TP. Hồ Chí Minh là thị trường có giá thuê đất và nhà xưởng cao nhất phía Nam với mức giá thuê là 162 USD/m2/chu kỳ thuê. Long An hiện đang là thị trường tiềm năng, được xem là lựa chọn mới bên cạnh 2 khu vực đầu tư truyền thống là Bình Dương và Đồng Nai. Mức tăng trưởng giá thuê đất và kho xưởng tại Long An tăng khá cao, tiệm cận mức 120 USD/m2/tháng.

Còn tại khu vực phía Bắc, báo cáo ngành Bất động sản khu công nghiệp của Công ty Cổ phần Chứng khoán MB cũng cho thấy, giá thuê mặt bằng bất động công nghiệp trong 6 đầu năm 2019 tăng trưởng khá tích cực so với cùng kỳ năm 2018. Điển hình là Hà Nội có giá thuê mặt bằng cao nhất miền Bắc (140 USD/m2/kỳ thuê). Về tỷ lệ lấp đầy, Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh là 3 địa phương có tỷ lệ lấp đầy khu công nghiệp cao nhất (xấp xỉ 80%).

Theo  Tạp Chí Tài Chính

Số liệu nghiên cứu của UOB cho rằng Việt Nam đang trở thành điểm sáng của châu Á giữa bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng trên thị trường thế giới.

Ngân hàng United Overseas Bank - UOB vừa công bố báo cáo kinh tế Việt Nam 7 tháng đầu năm 2019.

Theo báo cáo này, nhờ sự bùng nổ của nhu cầu trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI), Việt Nam được dự báo có tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,7% trong năm nay, và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới.

Tăng trưởng kinh tế sẽ đạt 6,7% năm 2019

Cụ thể, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế 7,1% trong năm 2018, cao nhất trong 11 năm qua. Trong đó, các lĩnh vực trọng yếu đều tăng trưởng, nổi bật như sản xuất, xây dựng, bán sỉ và lẻ tăng lần lượt 13%, 9,2% và 8,5%.

Ngành du lịch cũng đã diễn tiến tích cực với số lượng lượng khách quốc tế tăng 20%.

Trong nửa đầu năm nay, kinh tế trong nước đã tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2018. Đà tăng chủ yếu được thúc đẩy bởi các lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp (tăng 2,4%); công nghiệp và xây dựng (tăng 8,9%); dịch vụ (tăng 6,7%); đặc biệt là buôn bán sỉ và lẻ, vận tải, truyền thông, tài chính - ngân hàng, giáo dục và y tế.

Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu và sản xuất công nghiệp vẫn là những động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng. Xuất khẩu của Việt Nam nửa đầu năm qua đã tăng 7,3% so với năm ngoái, trong khi nhập khẩu tăng 10,5%.

UOB: Hon 20 ty USD von FDI se vao Viet Nam nam nay hinh anh 1

Trong năm nay, UOB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt khoảng 6,7% (nhìn chung đạt mục tiêu tăng trưởng đã công bố - 6,8%) và lạm phát ở mức 3,4%.

Theo đó, Việt Nam sẽ trở thành một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới.

Ngoài ra, UOB cũng dự báo Ngân hàng Nhà nước sẽ giữ lãi suất huy động ở mức 6,25% cho đến hết năm nay để đảm bảo môi trường tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế diễn ra thuận lợi.

Về vấn đề tỷ giá, UOB dư đoán tỷ giá VNĐ/USD sẽ đạt mức 23.400 đồng/USD vào quý III, và tăng lên 23.600 đồng/USD vào quý IV năm nay.

Vốn FDI trực tiếp sẽ đạt trên 20 tỷ USD

Báo cáo kinh tế lần này của UOB cũng chỉ ra xu hướng các công ty đa quốc gia đang di dời cơ sở sản xuất sang Việt Nam thay vì Trung Quốc hoặc các quốc gia khác trong khu vực.

Lo ngại về thuế xuất nhập khẩu cao đã khiến các nhà sản xuất (là những bên bị tác động bởi thuế bổ sung) phải cân nhắc mục tiêu hoạch định các chiến lược hiệu quả về mặt chi phí bằng cách di dời cơ sở sản xuất sang những địa điểm khác nhằm giảm thiểu tác động từ thuế quan thương mại.

Theo đó, Việt Nam đang là quốc gia lý tưởng cho hoạt động sản xuất và xuất khẩu ra thế giới nhờ sở hữu vị trí chiến lược để sản xuất và phân phối hàng hóa bằng đường bộ và đường biển.

So với các quốc đảo như Philippines và Indonesia, khoảng cách và thời gian di chuyển của vận tải đường biển tại Việt Nam ngắn hơn, do đó tiết kiệm được chi phí và đẩy nhanh tốc độ tiếp cận thị trường.

Ngoài ra, một trong những lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI là mức chi phí lao động tương đối thấp, đặc biệt khi so với Trung Quốc và Thái Lan.

Năm 2019, lương tối thiểu tại Việt Nam đã tăng lên khoảng 126-180 USDtùy từng vùng. Tuy nhiên, mức lương tối thiểu này chỉ bằng khoảng 38-54% so với Trung Quốc (hơn 330 USD/tháng), hay Thái Lan (274 USD).

UOB: Hon 20 ty USD von FDI se vao Viet Nam nam nay hinh anh 2

Gia tăng các khoản đầu tư được chuyển về Việt Nam được thể hiện thực tế qua dòng vốn FDI rót vào những tháng vừa qua.

Cụ thể, năm 2018, dòng vốn FDI (dựa trên vốn thực tế nhận được) tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 19,1 tỷ USD.

Dự báo trong năm nay, vốn FDI vào Việt Nam đang trên đà vượt mức 20 tỷ USD với mức tăng trưởng 4,7%. Các nguồn chính của FDI có thể sẽ đến từ Hàn Quốc, Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Hong Kong.

Dựa vào mức tăng trưởng hiện tại, 2019 có khả năng sẽ là năm tốt nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam về thu hút FDI. Kể từ đầu năm đến tháng 7, Việt Nam đã ghi nhận 2.064 dự án mới, tăng 25% so với cùng kỳ và là con số kỷ lục trong một năm.

Trong đó, Trung Quốc là quốc gia rót vốn FDI nhiều nhất vào Việt Nam, chiếm gần 25% tổng dòng vốn. Đây là cột mốc đánh dấu sự thay đổi hoàn toàn so với 2 năm trước, khi dòng vốn này trước đây bị chi phối mạnh bởi Hàn Quốc và Nhật Bản.

Điều này cho thấy những căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc vào nửa đầu năm 2018 có sức ảnh hưởng rõ rệt tới các nhà sản xuất Trung Quốc.

Trong mỗi quý kể từ quý III/2018, Việt Nam nhận được trung bình 4 tỷ USD, tăng 18% so với mức trung bình vào nửa đầu năm 2018, khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc vừa nổi lên.

Theo Zing News

Trong báo cáo mới được công bố, CTCK ACBS đã đưa ra quan điểm tích cực với ngành BĐS công nghiệp trong giai đoạn 2019 – 2020.

Tính tới tháng 6/2019, Việt Nam có 326 khu công nghiệp (KCN) với diện tích đất khoảng 95.500 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp chiếm 69% tương đương 65.500 ha. Có 251 KCN với tổng diện tích 66.200 ha đang hoạt động với tỷ lệ lấp đầy trung bình là 74% và 75 KCN với diện tích 29.300 ha đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng hoặc xây dựng cơ bản.

Trong báo cáo mới được công bố, CTCK ACBS đã đưa ra quan điểm tích cực với ngành BĐS công nghiệp trong giai đoạn 2019 – 2020. Do diện tích đất hạn chế và nhu cầu cao từ các công ty nước ngoài nên giá cho thuê và tỷ lệ lấp đầy dự kiến sẽ tiếp tục tăng. Về lâu dài, nguồn cung mới sẽ đến từ các địa phương nằm xa khu vực truyền thống vì các tỉnh này có giá cho thuê thấp hơn và tỷ lệ lấp đầy thấp hơn. Nhu cầu về nhà kho có diện tích lớn sẽ tăng nhờ tăng trưởng cao của mảng bán lẻ, thương mại điện tử và xuất khẩu.

Dưới đây là những cơ hội với ngành BĐS Công nghiệp được nêu trong báo cáo của CTCK ACBS:

Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và hiệp định thương mại tự do (FTA)

Theo báo cáo của Economist Intelligence Unit năm 2018, Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Ấn Độ sẽ hưởng lợi từ cuộc chiên thương mại Mỹ - Trung trong ngành sản xuất các sản phẩm CNTT, ô tô và dệt may.

Tổng giá trị xuất khẩu hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ đạt 47,5 tỷ USD trong năm 2018 (tăng 14%) và 27,5 tỷ USD trong 6T2019 (tăng 27%), trong đó các sản phẩm CNTT, giày dép và may mặc là 3 sản phẩm xuất khẩu nhiều nhất. Nhìn chung, khi chưa có chiến tranh thương mại thì việc dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc đã xảy ra từ lâu nhưng sự kiện này góp phần đẩy nhanh sự dịch chuyển và là động lực dài hạn thúc đẩy sực phát triển của thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam.

Việt Nam tích cực ký kết các hiệp định thương mại song phương trong những năm gần đây sẽ thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam cũng như thu hút thêm đầu tư nước ngoài vào thị trường BĐS công nghiệp. Tính đến tháng 7/2019, VIệt Nam có 13 FTA đã ký và 3 FTA đang đàm phán với 52 quốc gia. FTA mới được ký kết giữa EU – Việt Nam (EVFTA) là cú hích lớn vào năm 2019. Đáng chú ý, trong ASEAN chỉ có Việt Nam và Singapore ký kết CPTPP và FTA với EU.

Kinh tế vĩ mô ổn định

Nền kinh tế vĩ mô ổn định phản ánh qua tốc độ tăng trưởng GDP cao, lạm phát thấp và lãi suất cho vay ổn định. 

Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam luôn cao hơn mức trung bình của ASEAN kể từ năm 2013 và đạt mức cao nhất tỏng 10 năm qua (2019: 7,1%). Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế dự kiến sẽ vẫn ổn định với mục tiêu của chính phủ là 6,8% tỏng năm 2019. Lạm phát được giữ dưới mức 4% từ năm 2013 và dự kiến sẽ ở quanh mức này trong năm 2019. Lãi suất cho vay trung và dài hạn trung bình vào cuối năm được giữ ở quanh mức 9-11% trong vòng 5 năm qua và chỉ bằng một nửa so với mức lãi suất vào năm 2011 và dự kiến tăng nhẹ đến cuối năm 2019.

ACBS: “Giá BĐS Công nghiệp sẽ tiếp tục tăng do diện tích đất hạn chế và nhu cầu cao” - Ảnh 1.

Lực lượng lao động dồi dào, chi phí nhân công cạnh tranh

Việt Nam có dân số 96,2 triệu người, xếp thứ 15 trên Thế giới và thứ 3 trong ASEAN. Theo ước tính của CIA World Factbook 2019, Việt Nam có dân số trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) lớn thứ 2 trong ASEAN, chỉ sau Indonesia.

ACBS: “Giá BĐS Công nghiệp sẽ tiếp tục tăng do diện tích đất hạn chế và nhu cầu cao” - Ảnh 2.

Việt Nam tương đối cạnh tranh cả về lương sản xuất và phi sản xuất ở châu Á. Mức lương cơ bản hàng tháng của công nhân sản xuất Việt Nam năm 2018 chỉ gần bằng một nửa so với Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan. Lương kỹ sư sản xuất và lương nhân viên phi sản xuất tương đương hơn một nửa Trung Quốc, Malaysia và bằng 2/3 Thái Lan, theo JETRO.

ACBS: “Giá BĐS Công nghiệp sẽ tiếp tục tăng do diện tích đất hạn chế và nhu cầu cao” - Ảnh 3.

Cơ sở hạ tầng cải thiện

Là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Thế giới, Việt Nam đã nỗ lực đáng kể trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng và tỷ lệ % đầu tư cơ sở hạ tầng trên GDP trong ASEAN của Việt Nam ở mức cao nhất khu vực (2017: 5,7% GDP). Ngoài ra vẫn còn một danh sách gồm 127 dự án cơ sở hạ tầng để phát triển đến năm 2020.

ACBS: “Giá BĐS Công nghiệp sẽ tiếp tục tăng do diện tích đất hạn chế và nhu cầu cao” - Ảnh 4.

Đường bộ: Theo quyết định số 326/2016, Việt Nam có kế hoạch phát triển 6.411 km mạng lưới đường cao tốc. Đường trục bắc – nam dài hơn 3.083 km sẽ có 2 tuyến chạy về phía tây và phía đông của đất nước. Phía bắc sẽ có 14 đường cao tốc xuyên tâm, dài tổng cộng 1.368 km nối Hà Nội với các tỉnh/thành phố xung quanh; trong khi phía nam có 7 đường cao tốc dài tổng cộng 983 km nối liền TP.HCM với các tỉnh thành lân cận. Trong Q3/2018, Bộ GTVT đề nghị tăng tổng mạng lưới đường cao tốc quốc gia thêm 600 km, lên 3.000 km, trong đó 2.100 km sẽ hoàn thành trước năm 2020 và 4.000 km trước năm 2030.

Đường hàng không: Việt Nam sở hữu một trong những thị trường hàng không tăng trưởng nhanh nhất khu vực với 106 triệu lượt khách (tăng 12,9%) và 1,5 triệu tấn hàng hóa (tăng 7,9%) trong năm 2018. Do sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất ở TP.HCM đã quá tải nên chính phủ đã phê duyệt xây dựng sân bay quốc tế Long Thành ở tỉnh Đồng Nai, cách TP.HCM khoảng 45 km. Sân bay mới dự kiến sẽ được xây dựng từ cuối năm 2020 với tổng vốn đầu tư là 16 tỷ USD. Sân bay này dự kiến sẽ phục vụ 85% các chuyến bay quốc tế.

Đường thủy: Việt Nam có vị trí chiến lược về mặt địa lý với 3.260 km đường bờ biển và 114 cảng biển, trong đó các cảng biển lớn chủ yếu nằm ở TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng và Quảng Ninh. Cảng biển Việt Nam sở hữu khoảng 92,2 km cầu cảng dài, với tổng công suất hơn 550 triệu tấn/năm. Tổng cục thống kê công bố khối lượng vận tải hàng hóa đường biển và đường thủy nội địa đã tăng từ 205,8 triệu tấn trong năm 2010 lên 524,7 triệu tấn trong năm 2018, với tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm là 12,4%.

Đường sắt: Kế hoạch tổng thể được phê duyệt năm 2002 cho vận tải đường sắt là chiếm 25% vận tải hàng hóa và 20% vận chuyển hành khách vào năm 2020. Tuy nhiên, chỉ có 3% vốnd dầu tư giao thông hàng năm được dành cho đường sắt, so với gần 90% cho đường bộ. Chính phủ đang lên kế hoạch xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc nối Hà Nội và TP.HCM với tổng chiều dài 1.559 km với 24 ga. Tuy nhiên các nghiên cứu khả thi của dự án này vẫn chưa được các bộ ngành thống nhất.

Theo Trí Thức Trẻ

Đối tác chiến lược