Tin tức

Nguyễn Ngọc Thảo

Nguyễn Ngọc Thảo

Bất động sản công nghiệp phát triển sẽ tác động tích cực đến các thị trường khác như nhà ở, văn phòng cho thuê

Thống kê mới nhất của Savills Việt Nam cho thấy nhiều tập đoàn đã và đang di dời nhà máy từ Trung Quốc sang Việt Nam như: Hanwha, Yokowo, Shuafu, Goertek, Foxcom, Lenovo, Nintendo, Sharp, Kyocera, Oasis… Các tập đoàn này hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực điện tử, dệt may, giày dép, sản xuất phụ tùng.

Nhiều yếu tố hút nhà đầu tư vào KCN

Theo ông John Campbell, tư vấn cấp cao dịch vụ công nghiệp Savills Việt Nam, chính những căng thẳng thương mại Mỹ - Trung; các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia đã tạo cơ hội cho nguồn vốn đầu tư, từ đó tác động tích cực đến ngành bất động sản (BĐS) công nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sẽ xóa bỏ 99% thuế hải quan, hàng hóa thông thương sẽ gia tăng thu hút vào lĩnh vực BĐS công nghiệp.

Ông John Campbell cho rằng tỉ lệ lấp đầy KCN ở các tỉnh trọng điểm tăng trưởng mạnh theo năm, quỹ đất dồi dào và các dự án tiêu biểu gia tăng ngược lại cũng thúc đẩy sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. "BĐS công nghiệp phát triển tác động tích cực và trực tiếp đến các thị trường khác như nhà ở, văn phòng cho thuê... Các tập đoàn đa quốc gia sẽ đem theo một đội ngũ rất lớn chuyên gia, người lao động đến khu vực mà họ đặt nhà máy, văn phòng làm việc từ đó các phân khúc này được dự báo sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới" - tư vấn cấp cao của Savills Việt Nam nhận xét.

Trong khi đó, CBRE Việt Nam dẫn chứng số liệu giá đất công nghiệp giữa Trung Quốc và Việt Nam có sự chênh lệch rõ rệt. Theo đó, giá thuê đất công nghiệp ở Việt Nam trung bình hấp dẫn hơn, từ 100-140 USD/m2/chu kỳ thuê, trong khi giá ở Trung Quốc đến 180 USD/m2/chu kỳ.

Công ty JLL Việt Nam cũng thống kê mức giá thuê tại các KCN ở Việt Nam đã có chiều hướng tăng và tỉ lệ lấp đầy đã nhích lên. Theo JLL, giá thuê trung bình quý II/2019 đã tăng 15,8% so quý trước. Với mức 162 USD/m2/chu kỳ thuê, TP. Hồ Chí Minh tiếp tục là thị trường có giá thuê đất và nhà xưởng cao nhất phía Nam. Tiếp theo là Đồng Nai 160 USD/m2/chu kỳ thuê. Long An cũng rất tiềm năng, được xem là lựa chọn mới bên cạnh 2 khu vực đầu tư truyền thống là Bình Dương và Đồng Nai.

Theo JLL, do các KCN hiện tại đã có tỉ lệ lấp đầy cao, thời gian tới những KCN hiện hữu và KCN mới sắp đưa ra thị trường sẽ đáp ứng dần các nhu cầu mới của nhà đầu tư. Năm thị trường công nghiệp hàng đầu tại khu kinh tế trọng điểm miền Nam đều có tỉ lệ lấp đầy trung bình đạt được mức cao với 81% trong quý II/2019. Dẫn đầu vẫn là TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai.

Xét về triển vọng tương lai, sẽ có khoảng 18.290 ha đất đã được định hướng cho phát triển công nghiệp ở khu vực phía Nam, phần lớn nguồn cung tập trung chủ yếu ở các tỉnh Long An, Bình Dương và Đồng Nai.

Một góc Khu Công nghệ cao quận 9, TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: HOÀNG TRIỀU

Phát triển KCN gắn với đô thị

Theo ghi nhận của phóng viên, trong bối cảnh BĐS công nghiệp đang bùng nổ để đón đầu xu hướng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ mạnh vào Việt Nam thời gian qua, nhiều KCN trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh đã nỗ lực cải thiện, thay đổi để thu hút doanh nghiệp (DN), nhà đầu tư. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất, một số KCN đã đầu tư xây dựng nhà xưởng cao tầng. Như tại KCX Tân Thuận (quận 7), chủ đầu tư đã xây dựng 3 khối nhà xưởng cao tầng cho thuê hay KCX Linh Trung đang xây dựng nhà xưởng cao tầng dự kiến hoàn thành vào cuối năm nay.

Một xu hướng khác là các KCN đang tiến hành chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình "khu thương mại, dịch vụ, cụm công nghệ cao gắn với đô thị hiện đại" nhằm tăng sức cạnh tranh, sức hấp dẫn với DN, nhà đầu tư. Đại diện KCX Tân Thuận cho biết các KCN có vị trí gần trung tâm đang đẩy mạnh chuyển đổi theo hướng công nghiệp xanh, bền vững; nâng cao hiệu quả sử dụng đất, thu hút đầu tư về công nghệ thúc đẩy sự phát triển kinh tế…

Ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội BĐS TP. Hồ Chí Minh, đánh giá thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển khi các tập đoàn dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta đừng quá kỳ vọng và ảo tưởng về những lợi ích to lớn mà xu hướng này mang lại. Bởi hiện tại sức cạnh tranh của Việt Nam còn thua Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ…

"Đón nhận và ứng xử với xu hướng dịch chuyển này ra sao để tốt nhất cho thị trường là vấn đề. Theo tôi, cần nâng cao chất lượng hạ tầng, nguồn nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh từ việc phát triển hạ tầng, công nghiệp phụ trợ để thu hút BĐS công nghiệp. Văn phòng làm việc sẽ sôi động; căn hộ cho thuê, hộ gia đình cũng như các dịch vụ liên quan đến giáo dục, vui chơi, giải trí, mua sắm… cũng sẽ được thúc đẩy từ sự phát triển của BĐS công nghiệp" - ông Lê Hoàng Châu nói.

Cũng liên quan đến phát triển mặt bằng sản xuất trong bối cảnh hiện tại, bà Lâm Diệu Tâm Hiếu, chuyên gia phát triển dự án KCN - Phó Tổng Giám đốc Công ty Kizuna, cho rằng bên cạnh mô hình KCN truyền thống, vốn rất khó để DN nhỏ và vừa tiếp cận, các công ty BĐS KCN nên nghiên cứu mô hình kiểu mới cung cấp dịch vụ, nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, sử dụng năng lượng tái tạo.

Các KCN có thể cung cấp nhà xưởng xây sẵn với quy mô nhỏ và cần đồng hành với khách hàng ngay từ lúc khách hàng tìm hiểu đầu tư nhà xưởng sản xuất và trong suốt quá trình hoạt động sản xuất. "Đây thực sự sẽ là bước tiến mới trong việc cung cấp mặt bằng sản xuất cho DN vừa và nhỏ, thường gặp khó về việc xây dựng nhà xưởng đúng chuẩn, hiện đại, tiết kiệm chi phí" - bà Lâm Diệu Tâm Hiếu nhận xét. 

Giá đất công nghiệp ở miền Bắc trung bình trong quý III/2019 đạt 95 USD/m2/chu kỳ thuê, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Ngoài Hà Nội là trung tâm kinh tế có mức giá thuê cao nhất, Bắc Ninh và Hải Phòng vẫn giữ được vị trí hàng đầu nhờ nền tảng công nghiệp mạnh mẽ với khách thuê nổi bật, vị trí chiến lược và hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, theo JLL.

Jones Lang LaSalle (JLL) Việt Nam vừa công bố báo cáo về tiềm năng của các tỉnh phía Bắc Việt Nam, trong đó nêu bật những đặc điểm hứa hẹn sẽ là nền tảng phát triển cho các khu vực xung quanh Thủ đô Hà Nội.

Nền kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng mạnh mẽ giữa tình hình căng thẳng thương mại toàn cầu, với mức tăng GDP là 6,98% trong quý II/2019. Hoa Kỳ và châu Âu là hai thị trường xuất khẩu lớn nhất, trong khi Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn là hai thị trường nhập khẩu chính của Việt Nam.

Giá đất công nghiệp ở miền Bắc tiếp tục tăng trưởng ổn định đến cuối năm 2019

Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất trên khắp các tỉnh cũng mang lại nhiều tiềm năng phát triển lớn cho các lĩnh vực bất động sản khác. Điều này đã được chứng minh bằng dòng vốn đầu tư mạnh mẽ đang đổ vào thị trường bất động sản ở các tỉnh phía Bắc gần đây. Thống kê của BCI châu Á cho thấy, Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh và Hưng Yên là những tỉnh hàng đầu về số lượng dự án bất động sản, chỉ sau Hà Nội. Ngoài Quảng Ninh nổi tiếng với đặc khu kinh tế Vân Đồng và vịnh Hạ Long, ba tỉnh còn lại luôn dẫn đầu khu vực phía Bắc về các dự án phát triển công nghiệp.

Thị trường Bắc Ninh, Hải Phòng được thúc đẩy mạnh mẽ bởi các dự án dân cư đang được phát triển để tận dụng nhu cầu nhà ở ngày càng tăng từ số lượng người di cư và người nước ngoài đến làm việc tại các tỉnh. Khác với Bắc Ninh và Hải Phòng, nơi tập trung nhiều dự án nhất ở trung tâm thành phố, hầu hết các dự án ở Hưng Yên đều nằm dọc theo ranh giới với Hà Nội để hưởng lợi từ nhu cầu ở Thủ đô. Sở hữu vịnh Hạ Long, Quảng Ninh đã luôn rất nóng với nhiều nhà phát triển nổi tiếng, tập trung vào các tài sản nghỉ dưỡng và du lịch.

Khoảng 615ha đất công nghiệp đã được lên kế hoạch phát triển để tung ra thị trường trong giai đoạn 12 tháng tới. JLL dự đoán giá đất công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam dự kiến sẽ vẫn tăng trưởng ổn định đến cuối năm 2019 do nhu cầu mạnh mẽ đến từ nhà đầu tư. Các nhà đầu tư mới – phần lớn đến từ các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc sẽ vẫn quan tâm đến việc đầu tư sở hữu tài sản công nghiệp Việt Nam. Với làn sóng các nhà sản xuất chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc vẫn không có dấu hiệu hạ nhiệt, các khoản đầu tư sẽ tiếp tục đổ vào Việt Nam, đặc biệt là về năm thành phố công nghiệp trọng điểm của miền Bắc.

Đứng thứ 3 trong số 10 thành phố năng động nhất trong Báo cáo chỉ số động lực phát triển đô thị của JLL vào năm 2018, Hà Nội đang phát triển chóng mặt với các cập nhật cơ sở hạ tầng lớn, bao gồm cả một chặng đường tàu điện ngầm hiện đại. Stephen Wyatt - Tổng Giám đốc của JLL nhận xét: “Hà Nội chỉ đứng sau TP Hồ Chí Minh về số lượng doanh nghiệp, thành phố này hoàn toàn có tiềm năng để trở thành mũi nhọn kinh tế lớn nhất tại Việt Nam. Sự tắc nghẽn giao thông, vấn đề ô nhiễm và chỉ số minh bạch thị trường là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài đang cân nhắc thị trường phía Bắc”.

Thủ đô Hà Nội sở hữu một nền tảng nhân khẩu học mạnh mẽ với dân số trẻ và am hiểu công nghệ. Vì thế nên thương mại điện tử sẽ là một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với trung tâm bán lẻ truyền thống. Các không gian bán lẻ liên tục làm mới hình ảnh thương hiệu và sửa đổi chiến lược cho thuê đã đạt được hiệu suất tốt với tỷ lệ lấp đầy cao, trong khi các trung tâm khác đang vật lộn để giữ chân khách hàng.

Đô thị hóa và sự phát triển của các khu công nghiệp xung quanh đã thúc đẩy một lượng lớn người dân từ các tỉnh lân cận chuyển đến Hà Nội. Nguồn cung đất ở đây đang khan hiếm, tình hình thủ tục cấp phép trì hoãn đã thúc đẩy các nhà đầu tư mở rộng tầm nhìn vượt ra khỏi lòng Thủ đô để tìm cơ hội đầu tư tốt hơn.

Theo boxaydung.com.vn

Sau hơn 1 năm ra mắt thị trường, ngày 8/10/2019, chủ đầu tư Công ty Cổ phần Công nghệ Viễn Thông Sài Gòn (Saigontel) đã tổ chức thành công Lễ Cất Nóc cho dự án Saigontel Central Park.

a

Phó Tổng Giám Đốc Công ty Saigontel - Ông Phạm Văn Lực phát biểu về Lễ Cất Nóc

Saigontel Central Park là một dự án đầy tâm huyết của SAIGONTEL để đón đầu làn sóng phát triển mới của thị trường bất động sản Bắc Giang và được kỳ vọng sẽ trở thành dự án kiểu mẫu về một chuẩn mực sống tiện nghi và hiện đại.

Ngay từ khi khởi công, SAIGONTEL đã luôn chú trọng đảm bảo chất lượng & tiến độ thi công. Vì vậy, Saigontel Central Park không chỉ thu hút đông đảo khách hàng bằng quy mô, concept sản phẩm mà còn ghi điểm bởi tiến độ thi công đúng cam kết.

1

Ban Lãnh Đạo Công ty Saigontel thực hiện nghi lễ Cất Nóc

2

Ban Lãnh Đạo Công ty Saigontel thực hiện nghi lễ Cất Nóc

Công trình Saigontel Central Park có quy mô Diện tích: 1490 m2 gồm 19 tầng nổi + 2 tầng hầm. Tầng 1 – 2 được bố trí các shophouse và các không gian sinh hoạt cộng đồng. Tầng 3 – 19 là khối căn hộ chung cư với cơ cấu diện tích đa dạng. Hơn thế, Saigontel Central Park còn là dự án sở hữu vị trí BĐS đắt giá tại trung tâm thành phố Bắc Giang khi nằm ngay mặt đường Nguyễn Văn Cừ. Ngoài hệ thống tiện ích đồng bộ, đáp ứng mọi nhu cầu về thể thao, mua sắm, giải trí, cư dân Saigontel Central Park còn được thừa hưởng tiện ích công cộng như trường học, bệnh viện, siêu thị, khu vui chơi và các cơ quan hành chính...

Không có nhiều dự án cao cấp có mức giá hợp lý sở hữu một tầm nhìn rộng thoáng và "lá phổi" xanh của thành phố như Saigontel Central Park. Từ dự án cư dân dễ dàng di chuyển đến hồ điều hoà, tận hưởng bầu không khí trong lành và cân bằng giữa cuộc sống hiện đại và thiên nhiên xanh mát.

3

Hơn 1 năm ra mắt thị trường, Saigontel Central Park là một trong những dự án giữ được sức nóng và nhịp giao dịch đều trong bối cảnh thị trường nhiều thay đổi. Saigontel Central Park không chỉ là tổ hợp dịch vụ và căn hộ cao cấp kiểu mẫu tại thành phố Bắc Giang, mà còn là sản phẩm thiết lập và định vị tiêu chuẩn sống hiện đại, cao cấp tại thị trường này.

Ngày 13.10.2019 tới đây, Lễ mở bán căn hộ Saigontel Central Park – chuẩn mực sống mới tại Bắc Giang sẽ được diễn ra tại khách sạn Bắc Giang (số 8 Nguyễn Văn Cừ, thành phố Bắc Giang). Tại chương trình, khách hàng sẽ được cung cấp những thông tin hữu ích về dự án "hot" nhất Bắc Giang và trở thành chủ nhân của những quà tặng giá trị lên tới 300 triệu đồng.

Đơn vị phân phối: CTCP Bất động sản Sunrise

Website: http://sunriseproperty.com.vn/

Hotline: 0907.832.328

Chính thức cất nóc Chung cư cao cấp Saigontel Central Park Bắc Giang – mua nhà liền tay nhận ngay oto - Ảnh 1.

Một số hình ảnh khác trong Buổi Lễ:

4

5

6

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2019 dự kiến đạt 6,7%, con số này vượt trội so với các nền kinh tế còn lại trong khu vực.

Theo báo cáo cập nhật mới nhất tình hình kinh tế khu vực Đông Nam Á của ICAEW: Trong khi tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ giảm xuống còn 6,7% vào năm 2019, thì con số này vẫn vượt trội so với các nền kinh tế còn lại trong khu vực và Việt Nam vẫn là nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ hiệu ứng chuyển hướng thương mại tích cực, mặc dù ở đà thấp hơn, cũng như sức cầu mạnh trong nước và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vững chắc.

Tăng trưởng GDP một số nước trong khu vực Đông Nam Á (Theo Oxford Economics)

Tăng trưởng GDP một số nước trong khu vực Đông Nam Á (Theo Oxford Economics)

Tăng trưởng kinh tế chung của khu vực trong nửa đầu năm 2019 chậm lại 4% so với 4,5% cùng kỳ năm 2018. Đây là kết quả của sự tác động từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nhu cầu nội địa Trung Quốc giảm và suy thoái trong chu kỳ điện tử toàn cầu.

Theo báo cáo, chỉ có Việt Nam và Malaysia có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội so với khu vực, phản ánh sự giảm tốc khiêm tốn hơn trong tăng trưởng xuất khẩu và sức bật của nhu cầu nội địa. Trong khi đó, đà xuất khẩu chậm lại đè nặng lên sự tăng trưởng của các nền kinh tế phụ thuộc thương mại như Singapore, Thái Lan và Philippines.

Bà Sian Fenner, Cố vấn Kinh tế ICAEW & Trưởng Kinh tế gia Oxford khu vực Châu Á cho biết: “Trong bối cảnh những cơn gió ngược trên toàn cầu đang diễn ra và những kết quả không chắc chắn xung quanh các cuộc đàm phán thương mại Mỹ-Trung, chúng tôi cho rằng đây sẽ là những yếu tố dẫn đến triển vọng kinh tế trên toàn khu vực tiếp tục sụt giảm, đặc biệt là giữa các nền kinh tế phụ thuộc thương mại. Nhìn chung, tăng trưởng GDP khu vực Đông Nam Á dự kiến sẽ ở mức vừa phải 4,5% trong năm nay và ổn định ở mức tương tự vào năm 2020.”

Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ hiệu ứng chuyển hướng thương mại tích cực. Nguồn ảnh: QH

Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ hiệu ứng chuyển hướng thương mại tích cực. Nguồn ảnh: QH

Nền tảng cho tăng trưởng của Việt Nam

Xuất khẩu, nhu cầu trong nước và dòng vốn FDI vững chắc làm nền tảng cho tăng trưởng của Việt Nam.

Khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung leo thang và nhu cầu nội địa Trung Quốc chậm lại đè nặng lên xuất khẩu và tăng trưởng trên toàn khu vực, Việt Nam dường như là một trong số ít quốc gia được hưởng lợi. Xuất khẩu tăng 33% sang Mỹ trong nửa đầu năm 2019, đã giúp bù đắp thương mại chậm hơn với Trung Quốc và các nước trong khu vực, cho phép Việt Nam vượt trội so với các nền kinh tế khác trong khu vực. Được hỗ trợ bởi tốc độ xuất khẩu bền vững và sản xuất công nghiệp trong các ngành sản xuất và chế biến định hướng xuất khẩu, nền kinh tế đã tăng lên 6,7% trong quý II năm 2019, thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng 6,8% được ghi nhận trong quý I năm 2019.

Trong khi đó, sức tiêu thụ nội địa dự kiến sẽ vẫn mạnh mẽ trong giai đoạn 2019-2020. Chi tiêu hộ gia đình dự kiến sẽ vẫn ổn định trong bối cảnh lạm phát ổn định và thu nhập tăng, trong khi du lịch bền vững sẽ hỗ trợ ngành dịch vụ. Ngoài ra, triển vọng trung hạn cho dòng vốn FDI vẫn rất khả quan, với dòng vốn FDI vững chắc dự kiến sẽ tiếp tục hỗ trợ đầu tư. Do đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng Nhà nước) dự kiến sẽ giữ nguyên lãi suất tái cấp vốn ở mức 6,25% trong năm tới.

Dự kiến giảm tốc nhẹ trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng

Mặc dù nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục được hưởng lợi từ các hiệu ứng chuyển hướng tích cực, đà thương mại sẽ tiếp tục xu hướng giảm do nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc yếu hơn và chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng nói chung.

Chính sách thuế tiềm năng từ Mỹ cũng tạo ra nguy cơ chính đối với tăng trưởng của Việt Nam. Ngoài các mức thuế cao hơn đối với một số sản phẩm thép và nhôm đã có, ba nhóm sản phẩm: máy tính và phụ tùng, dệt may và thủy sản, có nguy cơ bị áp thuế cao hơn, bao gồm khoảng 18,4 tỷ USD hoặc gần 39% xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ trong năm 2018. Theo ước tính, nếu chính quyền Trump tăng thuế 10% đối với 18,4 tỷ USD hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ chậm lại khoảng 5,9% mỗi năm trong năm 2020−2021.

“Chúng tôi dự báo rằng các yếu tố đầy thách thức bên ngoài sẽ tiếp tục đè nặng lên sự tăng trưởng chung của các nền kinh tế Đông Nam Á, cũng như các dòng chảy thương mại khu vực. Nhìn về phía trước, tăng trưởng của Việt Nam sẽ ở mức vừa phải 6,3% vào năm 2020 và sau đó khoảng 6% mỗi năm trong năm 2020-21. Ngoài ra, chúng tôi cũng thận trọng với thuế quan tiềm năng của Mỹ đối với Việt Nam và tác động của chủ nghĩa bảo hộ thương mại nói chung, ông Mark Billington, Giám đốc khu vực ICAEW, Trung Quốc và Đông Nam Á nói.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

 

Giá thuê mặt bằng bán lẻ ngoài trung tâm đã tăng 3,4% nhờ mô hình thương mại hiện đại. Điều này cho thấy khách hàng đang yêu thích mô hình này.
 

JLL cho biết, nhu cầu đối với bất động sản bán lẻ tiếp tục khả quan trên thị trường. Tỷ lệ lấp đầy trung bình đạt 89%. Hiệu suất hoạt động được cải thiện ở một vài trung tâm bán lẻ cho thấy các biện pháp bố trí lại khách thuê và linh hoạt điều khoản thuê có hiệu quả. Kết quả khả quan ở các trung tâm bán lẻ này đã khiến các trung tâm khác bắt đầu chiến lược tái định vị và bố trí khách thuê của mình.

Nguồn cung khan hiếm

Trong QIII/2019, cả Hà Nội và TPHCM đều không có nguồn cung mới gia nhập thị trường . Tại TPHCM, diện tích trống vẫn duy trì ổn định ở cả khu vực Trung tâm và Ngoài trung tâm. Các khách hàng có nhu cầu thuê trên 1.000 m2 rất khó có thể tìm được một vị trí phù hợp trong các trung tâm bán lẻ hiện tại. Hầu hết các khách thuê yêu cầu diện tích lớn phải chờ đợi và tìm kiếm nguồn cung tương lai hoặc các trung tâm bán lẻ đang trong quá trình cải tạo/nâng cấp.

Trong khi đó, tại thị trường Hà Nội, tỉ lệ lấp đầy trong quý giảm còn 90,3%. Nguyên nhân là do một số TTTM bắt đầu nâng cấp và thay đổi chiến lược lựa chọn ngành hàng cho thuê. Đồng thời, việc một vài khách thuê chủ chốt như Auchan rời đi khiến tỷ lệ hấp thụ thấp.  Tuy nhiên, bên cạnh đó, những mặt bằng bán lẻ đầu tư vào hình ảnh và thương hiệu, có chiến lược thuê tốt vẫn ghi nhận tỷ lệ lấp đầy cao. Những TTTM tiêu biểu như AEON Mall, Vincom Metropolis, Vincom Trần Duy Hưng đều hoạt động hiệu quả và có diện tích trống thấp hơn 5%.

Khan hiếm nguồn cung bán lẻ trong quý III/2019. Ảnh: JLL

Khan hiếm nguồn cung bán lẻ trong quý III/2019. Ảnh: JLL

Mô hình thương mại hiện đại thu hút khách hàng

Nguồn cung ít khiến giá thuê tăng lên. Trong quý III, tại TPHCM, giá thuê mặt bằng tăng 0,2% theo quý, song lại giảm 2,6% theo năm. Nguyên nhân giá thuê giảm theo năm là do giá thuê thấp hơn trung bình thị trường của các trung tâm bán lẻ mới ở khu vực Ngoài trung tâm trong bốn quý trở lại đây, Estella Place, Gigamall và TNL Plaza.

Trong khi đó, tại Hà Nội giá thuê trung bình của thị trường giữ ở mức 29,3USD/m2/tháng, tăng 2,8% theo năm. Nguyên nhân là do Lotte Department Store đạt được giá thuê tốt sau khi cải tạo và nâng cấp. Ngoài ra, do có mô hình thương mại hiện đại nên giá thuê ở những mặt bằng bán lẻ ngoài quận Hoàn Kiếm cũng tăng thêm 3,4% theo năm. Điều này cho thấy sự yêu thích của người tiêu dùng với những mô hình này.

Ngành F&B, thời trang, giải trí tiếp tục dẫn dắt nhu cầu

Là yếu tố quan trọng tăng lượng khách tham quan đến các trung tâm bán lẻ, các khách thuê là thương hiệu quốc tế và chuỗi cửa hàng trong nước nhắm vào phân khúc bình dân/trung cấp kinh doanh các mặt hàng như F&B, chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp và thời trang tiêu thụ nhanh có kết quả kinh doanh khả quan và được các chủ nhà ưa chuộng. JLL cho biết, ngành F&B, thời trang tiêu thụ nhanh và lifestyle sẽ tiếp tục là nguồn cầu chính trên thị trường bán lẻ. Các thương hiệu quốc tế tiếp tục để mắt đến thị trường Việt Nam nhờ vào cơ cấu dân số trẻ và sự tăng trưởng của tầng lớp trung lưu.

Giá thuê bán lẻ

Giá thuê mặt bằng bán lẻ sẽ tăng nhẹ trong thời gian tới. Ảnh: JLL

Thị trường sẽ đón một nguồn cung mới trong quý cuối cùng của năm. Đối với thị trường TPHCM, Crescent Mall giai đoạn 2 sẽ khai trương, đóng góp 25.000 m2 GFA vào tổng nguồn cung.

Trong tình hình thị trường ngày càng cạnh tranh, các chủ đầu tư sẽ càng phải chịu sức ép lớn hơn trong việc thu hút khách thuê. Trong khi những trung tâm mới được kỳ vọng sẽ giới thiệu những mô hình hấp dẫn để xây dựng hình ảnh với người tiêu dùng, những trung tâm hiện tại cần không ngừng cố gắng để bắt kịp với xu hướng thị trường nếu muốn giữ vững hiệu suất hoạt động.

“Giá thuê được dự đoán sẽ đi ngang hoặc tăng nhẹ trong thời gian tới, nhờ ảnh hưởng tích cực của tình hình kinh tế hiện tại lên nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng”, JLL nhận định.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Các nhà đầu tư ngoại đang tích cực tìm kiếm liên doanh với các nhà phát triển công nghiệp nội địa, hoặc thâu tóm quỹ đất và các tài sản công nghiệp.

Làn sóng dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam gia tăng

JLL cho biết, Việt Nam là quốc gia sở hữu những yếu tố vô cùng thuận lợi cho kinh tế tăng trưởng như tỷ lệ dân số trẻ và tầng lớp trung lưu rộng lớn, với tiềm năng tiêu thụ hàng tiêu dùng rất lớn. Do đó, đây là khu vực đang thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư.

Trong nửa đầu năm 2019, vốn giải ngân cho đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 9,1 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2018. Có 1.723 dự án mới đăng ký trị giá 7,41 tỷ USD, tăng 63% so cùng kỳ năm trước.

Các hiệp định thương mại tự do như là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu (EVFTA) cũng là những động lực tích cực cho sự tăng trưởng. Trong khi đó, nhu cầu hàng tiêu dùng trong nước tiếp tục tăng do tầng lớp trung lưu gia tăng và lực lượng lao động dồi dào.

Cùng với đó, làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam khiến nhu cầu về bất động sản công nghiệp không ngừng tăng lên. Mặc dù chưa có kết cục rõ ràng nào cho cuộc chiến thương mại, nhưng sức hấp dẫn của thị trường này dường như không ngừng gia tăng.

Tập đoàn Sharp vừa công bố kế hoạch xây dựng một nhà máy mới tại Việt Nam, trong khi công ty sản xuất giày Brooks Running của Mỹ cũng đang chuyển dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang nước lân cận.

Foxconn, nhà cung cấp linh kiện cho tập đoàn Apple đã mở rộng dấu chân tại Việt Nam bằng việc mua lại một nhà máy sản xuất linh kiện nội địa vào tháng 7 vừa qua. Thậm chí các nhà sản xuất Trung Quốc cũng đang để mắt đến Việt Nam - theo nghiên cứu từ Nikkei Asian Review, gần 70% trong số 33 công ty Trung Quốc được khảo sát đang có kế hoạch mở rộng ra nước ngoài và cân nhắc chọn Việt Nam làm điểm đến.

Các nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm tới 3 hình thức đầu tư vào thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam. Ảnh: baodauthau.vn

Bất động sản công nghiệp hút nhà đầu tư ngoại

JLL cho biết, cho sự quan tâm của các nhà đầu tư bất động sản chuyển hướng tới các quốc gia Đông Nam Á, trong đó, thị trường công nghiệp Việt Nam nổi lên như điểm sáng trong khu vực. Theo báo cáo của JLL, các tài sản công nghiệp và đặc biệt là tài sản hậu cần đang được chú ý nhiều nhất khi các công ty tìm cách mở rộng và dịch chuyển nhà máy sản xuất ra khỏi Trung Quốc để tránh thuế quan của Mỹ. Mức giá thuê đất công nghiệp trung bình ở miền Nam và miền Bắc tại Việt Nam là 95USD/m2/thời hạn thuê, tăng lần lượt 15,8% và 6,7% so với cùng kỳ năm trước đó.

Theo bà Nguyễn Thị Vân Khanh - Giám đốc Cấp cao Thị trường vốn tại Việt Nam của JLL, “Các nhà đầu tư nước ngoài đang tích cực tìm kiếm liên doanh với các nhà phát triển công nghiệp nội địa, hoặc thâu tóm quỹ đất và các tài sản công nghiệp đang hoạt động. Nhu cầu đối với các tài sản công nghiệp là chưa bao giờ giảm nhiệt.Từ lâu, các nhà đầu tư đã để mắt đến phân khúc này bởi năng suất làm việc cao và chi phí lao động thấp ở Việt Nam. Và những căng thẳng thương mại gần đây góp phần đẩy nhanh quá trình quyết định di dời của các tập đoàn.”

Tuy nhiên, các công ty đã có mặt tại Việt Nam cũng đưa ra những mối lo ngại trong việc tìm kiếm nguồn lao động tay nghề cao, và hàng loạt những yêu cầu trong chuỗi cung ứng có chất lượng tương ứng với nguồn hàng mà họ đã sử dụng ở Trung Quốc. Bà Khanh cũng cảnh báo rằng cơ sở hạ tầng sẽ gặp nhiều thử thách để bắt kịp đà tăng trưởng các doanh nghiệp sản xuất chuyển hướng sang Việt Nam.

“Nhiều dự án hạ tầng tại Việt Nam đang phải đối mặt với sự chậm trễ do quá trình bồi thường giải phóng mặt bằng và dòng vốn. Để thu hút thêm đầu tư nước ngoài, đón đầu những lợi ích của các công ty di chuyển đến đây, Việt Nam sẽ cần cải thiện mạng lưới cơ sở hạ tầng và quá trình thực hiện các giao dịch xuyên biên giới,” bà Khanh nhấn mạnh.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Báo cáo thị trường quý 3 của DKRA Vietnam hé lộ một số điểm nhấn mới.

Theo ghi nhận của công ty CP DKRA Việt Nam (DKRA Vietnam), trong quý 3/2019, thị trường bất động sản nhà ở TP.HCM chứng kiến nguồn cung phân khúc căn hộ gia tăng đột biến nhờ vào dự án Vinhomes Grand Park tại khu Đông. Dù vậy, nếu loại trừ dự án này, thị trường nhìn chung suy giảm cả về nguồn cung và sức cầu.

Cụ thể, có 8 dự án được chào bán ra thị trường với tổng số lượng 13.853 căn, tăng gấp 5,4 lần so với quý 2 và 71% so với cùng kì năm trước. Lượng tiêu thụ nguồn cung mới lên tới 96%, tăng 6,5 lần so với quý 2 và 2,1 lần so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ hấp thụ rất cao cho thấy người mua nhà vẫn dành một sự quan tâm rất lớn đến phân khúc nhà ở một khi có cơ hội rót tiền.

Nhưng trên phân khúc nhà phố và biệt thự, thống kê của DKRA Vietnam cho thấy cả nguồn cung và sức cầu của thị trường đều giảm mạnh. Toàn thị trường chỉ có 1 dự án được mở bán với chỉ 30 căn. Tỉ lệ tiêu thụ đạt khoảng 67%.

Ở phân khúc đất nền, sự kiện liên quan đến tập đoàn Alibaba phần nào tác động đến tâm lí người mua. Kết quả là quý 3 chỉ chứng kiến 3 dự án mới ra mắt thị trường với số lượng 473 nền, chỉ bằng 73% so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ tiêu thụ nguồn cung mới đạt 75%- tăng không đáng kể so với hai quý đầu năm.

Không khí trầm lắng cũng thể hiện trên phân khúc bất đông sản nghỉ dưỡng. Trong quý 3, lượng biệt thự biển mở bán chỉ là 68 căn, bằng 5% so với quý 2 do không có dự án lớn triển khai. Tỉ lệ hấp thụ biệt thự biển đạt 67%.

Trên phân khúc condotel, DKRA Vietnam ghi nhận 6 dự án mở bán với nguồn cung đạt 2.605 căn, bằng 68% so với quý 2. Tỉ lệ tiêu thụ đạt khá cao: 86%. Nguồn cung sơ cấp và lượng tiêu thụ tập trung chủ yếu ở Ninh Thuận, Khánh Hòa và Đà Nẵng.

Triển vọng thị trường quý cuối năm có thể không nhiều đột biến. DKRA Vietnam cho rằng nguồn cung căn hộ có thể sẽ giảm mạnh, sức cầu có thể cải thiện nhưng không đáng kể.  Căn hộ hạng A và hạng B tiếp tục dẫn dắt thị trường trong khi nguồn cung hạng C tiếp tục khan hiếm.

Thị trường nhà phố/biệt thự có thể sẽ khởi sắc hơn với lượng mở bán dao động trong 400-600 căn. Khu Đông tiếp tục dẫn đầu thị trường, nhưng sức cầu khó có sự gia tăng đột biến.

Trên phân khúc bất động sản nghỉ dưỡng, nguồn cung mới condotel có thể giảm nhẹ trong khi biệt thự biển có thể sẽ tăng. Các dự án gây chú ý vào thời điểm cuối năm có thể đến từ dự án The Sóng tại Vũng Tàu của An Gia hay dự án Thanh Long Bay tại Hàm Thuận Nam- Bình Thuận.

Theo ông Nguyễn Hoàng, giám đốc phòng R&D của DKRA Vietnam, trong thời gian tới, các dự án theo mô hình khu nghỉ dưỡng tích hợp (integrated resorts) nhận được sự quan tâm lớn từ khách hàng, trong đó loại hình nhà phố/shophouse được thị trường đón nhận khá tốt.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Theo Thủ tướng, kết quả tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2019 tốt hơn dự báo càng khẳng định sự phù hợp của nhận định năm 2019 sẽ hoàn thành toàn diện, vượt mức các mục tiêu kế hoạch đề ra.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của kinh tế khu vực và toàn cầu

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc

Năm 2019 sẽ hoàn thành vượt mức các mục tiêu kế hoạch đề ra
Phát biểu khai mạc phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2019 vào sáng nay (2/10), Thủ tường cho biết: “Chúng ta đã đi 3/4 chặng đường của năm 2019. Tôi xin thông báo thông tin đáng mừng, đó là tình hình kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2019 tốt hơn so với dự báo. Nhìn chung, chúng ta có những chỉ tiêu tốt hơn cùng kỳ năm 2018 trên tất cả các lĩnh vực”.
Cụ thể, GDP 9 tháng tăng 6,98%, mức tăng cao nhất trong vòng 9 năm qua. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, bình quân 9 tháng tăng 2,5%, mức tăng thấp nhất trong 3 năm qua. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10,3%, đặc biệt khu vực ngoài Nhà nước chiếm tỷ trọng 45,3%, tăng 16,9%. Vốn FDI thực hiện cao nhất trong nhiều năm trở lại đây, ước đạt 14,2 tỷ USD, tăng 7,3%. Thu ngân sách Nhà nước tăng cao (10,1%), bội chi còn 3,4% GDP, nợ công còn dưới 57% GDP.
Xuất khẩu trên đạt trên 190 tỷ USD, tăng 8,2%, trong đó khu vực kinh tế trong nước xuất khẩu tăng 16,4%. Xuất siêu ở mức kỷ lục, gần 6 tỷ USD.
Ngành chế biến, chế tạo tăng 11,37%, tiếp tục là động lực tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế trong quý III.
Nông nghiệp mặc dù gặp khó khăn vẫn đạt mức tăng trên 2%. Trong đó, ngành lâm sản xuất khẩu gỗ đạt con số trên 9 tỷ USD và cả năm, xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ có thể đạt trên 11 tỷ USD.
Tổng cầu tiêu dùng tiếp tục tăng mạnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,6%. Khách quốc tế đạt 12,9 triệu lượt người, tăng 10,8%.
Số lượng doanh nghiệp thành lập mới đạt kỷ lục với 102.000 doanh nghiệp (tăng 5,9% về số doanh nghiệp và tăng 34% về số vốn đăng ký).
Thủ tướng cho rằng, kết quả trên càng khẳng định sự phù hợp của nhận định, đánh giá tình hình mà Ban Cán sự Đảng Chính phủ trình Bộ Chính trị và sắp tới trình Trung ương, đó là dự kiến năm 2019 sẽ hoàn thành toàn diện, vượt mức các mục tiêu kế hoạch đề ra, là năm thứ hai liên tiếp đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có 5 chỉ tiêu vượt.
"Điều đáng nói là không chỉ tăng trưởng về số lượng mà chất lượng được cải thiện rõ nét. Tăng trưởng vượt mục tiêu đề ra trong khi vẫn duy trì ổn định kinh tế vĩ mô vững chắc hơn, đặc biệt lạm phát được kiểm soát tốt và các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Đời sống nhân dân chuyển biến rõ nét", Thủ tường nói thêm.
Cũng theo Thủ tướng, trong bối cảnh tình hình thương mại bất ổn, đặc biệt là căng thẳng thương mại Mỹ-Trung leo thang, các tổ chức quốc tế có uy tín vẫn đánh giá cao Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của kinh tế khu vực và toàn cầu. ADB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức 6,8% năm 2019. Standard Chartered đánh giá Việt Nam có tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt 6,9%, và tốc độ này được kỳ vọng sẽ duy trì đến năm 2021. Citigroup Inc. đã điều chỉnh dự báo cả năm cho kinh tế Việt Nam lên 6,9%, từ mức 6,7% trước đó...
Thủ tướng cho rằng, điều đó khẳng định những nỗ lực, cố gắng của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Đặc biệt, kết quả đó minh chứng rõ nét cho nỗ lực vượt khó với tinh thần đổi mới, sáng tạo, đoàn kết và ý chí quyết tâm, phấn đấu vươn lên của cả dân tộc.
 
Chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam không như kỳ vọng
Theo Thủ tướng, bên cạnh kết quả tích cực, còn nhiều điểm yếu, khó khăn, thách thức. Cụ thể như việc giải ngân vốn đầu tư công còn chậm, mới đạt 45,17% kế hoạch được Quốc hội thông qua, cùng kỳ đạt trên 50%, trong đó giải ngân vốn nước ngoài chỉ đạt 18,8%.
Ngành nông nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh gây ra, nhất là dịch tả lợn châu Phi làm 5 triệu con bị tiêu huỷ, đàn lợn giảm gần 20%.
Sản xuất, kinh doanh một số lĩnh vực gặp khó khăn, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm giảm. Như vậy, chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam do tác động của xung đột thương mại không như kỳ vọng.
“Chúng tôi đã tập trung nêu vấn đề này với các đồng chí ở Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin và Truyền thông và nhiều bộ khác nhưng chúng ta đón bắt cái này còn hạn chế. Các cấp, các ngành nhận thức vấn đề này còn chậm nên nhiều tập đoàn lớn chưa vào lúc này như chúng ta dự đoán”, Thủ tướng nói.
Thủ tướng cũng chỉ ra một tồn tại nữa là một số dự án công nghiệp, giao thông trọng điểm tiếp tục chậm tiến độ, chưa xác định thời gian hoàn thành.
Bên cạnh một số mặt hàng xuất khẩu tăng cao thì nhiều mặt hàng chủ lực giảm nhất là nông sản do giá giảm mạnh. Do đó, vấn đề tìm thị trường mới, cơ cấu lại thị trường… cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn.

Theo Bizlive

Trong khi thương mại điện tử ở 2 thành phố lớn chiếm tới 70% số lượng giao dịch nhưng chỉ là cuộc cạnh tranh về giá thì thị trường nông thôn trở thành khu vực ổn định, còn nhiều tiềm năng cần phát triển.

Mobile Money có thể trở thành công cụ thúc đẩy thương mại điện tử ở nông thôn

Hiện nay Việt Nam đang có gần 100 triệu dân với 72 triệu người sử dụng diện thoại di động. 31% dân số là người trưởng đang có tài khoản tại các ngân hàng, tổ chức tài chính. Tuy nhiên về cơ cấu dân số, lại có tới 64,2% người dân đang ở nông thông với 40% làm nông nghiệp.
 
Trong khi đó với ngành thương mại điện tử, tổng giá trị giao dịch ngành trong năm 2018 tại Việt Nam đã đạt 8 tỷ USD. Nhưng 70% các giao dịch lại nằm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây hoạt động thương mại điện tử đang là cuộc chiến về giá.
 
Quy mô thương mại điện tử ở các địa phương khác, đặc biệt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn rất nhỏ. Đây cũng là khu vực thị trường có rất nhiều tiềm năng cho cả người bán và người mua cần được khai phá.
 
Người bán trên các hệ thống thương mại điện tử ở các vùng nông thôn có nhu cầu bán các loại hàng đặc sản vùng miền của họ, các đồ thủ công mỹ nghệ ở địa phương, các sản phẩm chăn nuôi, chế biến.
 
3 rào cản chính khi phát triển thương mại điện tử với khu vực này được nhận định đó là thiếu niềm tin, hệ thống giao vận chưa bao phủ rộng và các vấn đề về thanh toán.
 
Người mua không đủ tin tưởng về chất lượng sản phẩm, về dịch vụ khách hàng, vẫn lo sợ các gian lận khi thanh toán. Trong khi Việt Nam và ở khu vực nông thôn, thanh toán vẫn dựa trên tiền mặt. Thẻ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng trực tuyến không được sử dụng rộng rãi. 
 
Phần lớn giao dịch thương mại điện tử thường áp dụng hình thức thanh toán khi giao hàng (COD) trong khi đó hình thức thanh toán này có tỷ lệ huỷ đơn hàng cao hơn. Và nếu một đơn bị huỷ, bên bán sẽ phải chịu thêm cả chi phí chuyển hàng về, khiến lợi nhuận gần như không còn. Nhiều khu vực ở Việt Nam các dịch giao nhận vẫn chưa thể tiếp cận.
 
Một giải pháp có thể thúc đẩy được phát triển thương mại điện tử ở các vùng nông thôn là Mobile Money. 
 
Tại Diễn đàn cấp cao và Triển lãm quốc tế về Công nghiệp 4.0 diễn ra ngày 2 và 3/10 do Ban Kinh tế Trung ương cùng một số bộ liên quan phối hợp tổ chức, ông Nguyễn Nam Thắng, Phó giám đốc Trung tâm FinTech – VNPT Media đã dẫn lại ý kiến của Bộ Trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông: “Chủ trương của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cho việc phổ cập mảng thanh toán khu vực nông thôn qua Mobile Money với sự tham gia của các nhà mạng sẽ giúp người ở thành phố có thể mua một nải chuối ở vườn cây của một người ở bất kỳ thôn bản nào trên toàn quốc, thậm chí ở cây nào trong vườn cây đó. Người nông dân cũng vì đó mà bán được giá cao”.
 
Thực tế thì Mobile Money là dịch vụ chuyển tiền, thực hiện thanh toán dựa trên điện thoại di động. Khác với ví điện tử và Mobile Banking, Mobile Money không yêu cầu khách hàng phải có tài khoản ngân hàng để sử dụng.
 
Điều này phù hợp với đối tượng người dùng ở nông thôn, nơi những dịch vụ ngân hàng vẫn khó tiếp cận vì không có chi nhánh tới tận từng thôn, xã.
 
Các mạng viễn thông không chỉ cung cấp dịch vụ Mobile Money mà còn có thể tham gia vào dịch vụ giao nhận, dựa vào những điểm dịch vụ đã có ở từng khu vực. Như vậy có thể hoàn thiện tất cả những điểm hạn chế khi phát triển thương mại điện tử ở nông thôn.
Ông Nguyễn Nam Thắng, Phó giám đốc Trung tâm FinTech – VNPT Media.
 
Cũng theo ông Thắng, Mobile Money còn phù hợp cho cả những khách hàng đang sử dụng ngân hàng truyền thống nhưng họ chỉ dùng thẻ ATM để rút tiền. Quan trọng nhất là khách hàng sử dụng điện thoại di động trong mọi mặt của đời sống.
 
Hiện nay dịch vụ này có đủ khả năng sử dụng làm công cụ thanh toán cho các hoạt động của kinh tế số, từ dịch vụ di chuyển, thanh toán hoá đơn để dùng trong các hoạt động chính phủ như thanh toán thuế.
 
Ở các nước đã phát triển dịch vụ Mobile Money, đây còn là công cụ để thực hiện giải ngân các khoản vay hỗ trợ xoá đói giảm nghèo.
 
Nhưng để làm được tất cả điều này, bản thân các nhà cung cấp Mobile Money còn cần tự chuẩn bị hạ tầng kỹ thuật, tăng số điểm giao dịch và mở rộng hợp tác với các dịch vụ thương mại điện tử, đối tác logistic, đối tác tài chính.
Theo Bizlive

Trả lời báo Trí thức trẻ bên lề Hội nghị "Industry 4.0 Summit", ông Jeong Sam Yong - Tổng giám đốc Samsung SDS Việt Nam nhấn mạnh cam kết của người khổng lồ công nghệ thế giới với chiến lược chuyển đổi số quốc gia của Việt Nam.

Tổng giám đốc Samsung SDS Việt Nam: Tiềm năng trở thành công xưởng thế giới của Việt Nam là một lợi thế trong tiến trình chuyển đổi số

Góc nhìn về chuyển đổi số Việt Nam của một người Hàn Quốc

- Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in coi chuyển đổi số, xây dựng các thành phố thông minh là một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Hàn Quốc. Ông Moon cũng nhắc đến tên Samsung hay các tập đoàn công nghệ lớn khác của đất nước như một lợi thế cho tiến trình này. Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại?

Chuyển đổi số đang là một xu thế mới. Chính vì vậy, rất nhiều công ty đang đầu tư mạnh mẽ cho công cuộc này. Trong khi đó, công nghệ cũng phát triển rất nhanh những năm trở lại đây, tạo điều kiện để các doanh nghiệp có thể áp dụng các giải pháp công nghệ thông tin vào sản xuất và kinh doanh.

Chính điều này giúp Samsung nói chung và Samsung SDS nói riêng có lượng khách hành lớn, bao gồm từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc siêu nhỏ đến các doanh nghiệp lớn quy mô toàn cầu. Thay đổi công nghệ, đưa công nghệ mới vào hoạt động sẽ giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Không chỉ các công ty sản xuất, ngân hàng hay các dịch vụ tài chính cũng tiến hành những thay đổi để đáp ứng điều này.

Những năm qua, bản thân Samsung cũng liên tục cập nhật những tiến bộ mới về công nghệ để có thể thích ứng với các đòi hỏi mới như trong lĩnh vực thương mại điện, tử, trí tuệ nhân tạo hay big data. Tôi tin rằng trong 10 năm tới, nhóm 10 doanh nghiệp lớn nhất thế giới sẽ có nhiều cái tên trong lĩnh vực chuyển đổi số.

Samsung và Hàn Quốc muốn trở thành những "tay chơi" hàng đầu trong cuộc đua chuyển đổi số ở châu Á và thế giới với blockchain, AI, IoT hay Big Data.

Tổng giám đốc Samsung SDS Việt Nam: Tiềm năng trở thành công xưởng thế giới của Việt Nam là một lợi thế trong tiến trình chuyển đổi số - Ảnh 1.

- Theo đánh giá của ông, một nước đang phát triển như Việt Nam gặp những thách thức gì trong công cuộc chuyển đổi số?

Hiện nay, Việt Nam đã đưa nhiều công nghệ mới vào sản xuất, trong đó có robot, trí tuệ nhân tạo hay Internet vạn vật. Đó là một sự tiến hóa trong sản xuất. Nhìn lại vài trăm năm trước, ở Mỹ hay bất cứ nơi nào khác trên thế giới, người ta vẫn lao động chân tay để tạo ra sản phẩm. Bây giờ, chúng ta đã có công nghệ tự động hóa với những nhà máy gần như không có bóng dáng con người.

Để đạt đến trình độ tự động hóa như vậy, đầu tiên, người ta phải thu thập dữ liệu từ máy móc hoặc các khâu khác trong quá trình sản xuất. Sau đó, những dữ liệu này được đưa vào phân tích trước khi lập trình tự động và đưa vào tổ chức sản xuất.

Tuy nhiên, độ tuổi trung bình của lao động Việt Nam khá trẻ so với các nước như Hàn Quốc hay Đức nên nó sẽ tạo ra một số vấn đề về pháp lý, khi tự động hóa được áp dụng vào sản xuất. Việc máy móc thay thế con người dẫn tới việc nhiều lao động bị dư thừa và đó là vấn đề cần xử lý.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ phải giải quyết yêu cầu của thị trường, trong đó có giảm chi phí sản xuất nhưng lại nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là một xu thế của toàn cầu bởi khách hàng luôn yêu cầu các sản phẩm với giá thành thấp nhưng chất lượng tốt.

Cam kết với chiến lược chuyển đổi số của Việt Nam

- Mục tiêu của Samsung với thị trường chuyển đổi số Việt Nam là gì?

Samsung là một doanh nghiệp toàn cầu lớn và thể hiện rất rõ mong muốn tham gia vào thị trường chuyển đổi số Việt Nam. Hợp đồng hợp tác với công ty công nghệ Việt Nam - CMC, trong đó đưa Samsung SDS trở thành cổ đông chiến lược của doanh nghiệp này, phần nào thể hiện điều đó. Samsung cam kết hỗ trợ Việt Nam lâu dài trong chiến lược chuyển đổi số quốc gia.

Tập đoàn Samsung đã áp dụng thành công nhiều giải pháp chuyển đổi số trên quy mô toàn cầu, với nhiều khách hàng lớn. Sự hiện diện hùng hậu của Tập đoàn Samsung tại Việt Nam chính là bảo đảm cho cam kết và thành công khi áp dụng các giải pháp này cho công cuộc chuyển đổi số của các khách hàng Việt Nam.

- Ở Việt Nam, người ta thường biết đến Samsung với tư cách là nhà sản xuất smartphone lớn nhất, còn chuyển đổi số thì Samsung đang cung cấp những giải pháp gì?

Trên thực tế, Samsung tập trung vào thị trường B2B và chúng tôi tin rằng điều này có thể giúp ích cho chuyển đổi số của Việt Nam. Khách hàng của Samsung có thể sử dụng những giải pháp mà chúng tôi cung cấp để đáp ứng nhiều đòi hỏi khác nhau.

Hiện tại, Samsung đang hỗ trợ Việt Nam trong việc triển khai các giải pháp công nghệ thông tin, áp dụng các phần mềm quản lý trong điều hành sản xuất. Ngoài các dự án về phần mềm, Samsung còn hỗ trợ các giải pháp về viễn thông và tích hợp hệ thống. Trong tương lai, Samsung sẽ thúc đẩy xây dựng các giải pháp về thành phố thông minh, tòa nhà thông minh nhờ các ứng dụng IoT, điện toán đám mây và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng mạng lưới an ninh với công nghệ blockchain để bảo vệ dữ liệu.

Tổng giám đốc Samsung SDS Việt Nam: Tiềm năng trở thành công xưởng thế giới của Việt Nam là một lợi thế trong tiến trình chuyển đổi số - Ảnh 2.

- Với kinh nghiệm về chuyển đổi số từng thành công ở Hàn Quốc và một số quốc gia khác trên thế giới, những giải pháp nào theo ông có thể giúp ích cho Việt Nam trong chiến lược chuyển đổi số quốc gia?

Samsung đã có nhiều thành tựu trong việc đưa ra các giải pháp IT cho hàng loạt các lĩnh vực, từ vận hành của doanh nghiệp tới lĩnh vực tài chính hay hoạt động của chính phủ…. Mảng mạnh nhất của Samsung hiện nay là big data và các giải pháp số hóa phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, smartcity.

Tôi tin rằng, những điều đó có thể phù hợp với Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển khác trong việc chuyển đổi số hay xây dựng các thành phố thông minh. Với bề dày kinh nghiệm của mình, Samsung tự tin có thể đáp ứng được các nhu cầu của thị trường Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi số.

- Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng của thị trường chuyển đổi số Việt Nam?

Việt Nam là quốc gia gần 100 triệu dân với độ tuổi trung bình trẻ. Trong tương lai gần, Việt Nam có thể trở thành công xưởng sản xuất của thế giới khi các nhà máy đang rời khỏi Trung Quốc hay Hàn Quốc để đến những quốc gia tiềm năng hơn như Việt Nam. Cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc giúp đẩy nhanh tiến trình này.

Ngoài ra, Việt Nam có rất nhiều nguồn lực khác.  Con người Việt Nam thông minh, sáng tạo và ham học hỏi. Đó là những lợi thế, mang đến tiềm năng to lớn cho thị trường chuyển đổi số Việt Nam.

Thách thức của người khổng lồ

- Samsung mong muốn gì khi tham gia xây dựng các thành phố thông minh ở Việt Nam?

Khi xây dựng thành phố thông minh, Samsung sẽ xây dựng một kế hoạch tổng thể sau đó sẽ kết hợp với các đối tác khác cùng thực hiện xây dựng thành phố thông minh. Chúng tôi phải tập hợp rất nhiều nguồn lực. Với một công ty như Samsung, chúng tôi có nhiều kinh nghiệm và khả năng trong việc xây dựng thành phố thông minh. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cần chính phủ cũng như các doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ.

- Việt Nam khác biệt như thế nào với các thị trường chuyển đổi số khác của Samsung ở châu Á và trên thế giới?

Chúng tôi đã thành công ở rất nhiều nước khác, chẳng hạn như Singapore. Với tư cách là một công ty toàn cầu, Samsung tự tin rằng mình có khả năng để hiểu được khách hàng muốn gì và cần làm gì để đáp ứng mong muốn của họ.

Tuy nhiên, dù đã thành công ở nhiều nơi nhưng khi tham gia vào thị trường Việt Nam, Samsung cũng phải đánh giá tổng thể và lường trước được tất cả những khó khăn mà chúng tôi có thể gặp phải trong quá trình hoạt động.

Tổng giám đốc Samsung SDS Việt Nam: Tiềm năng trở thành công xưởng thế giới của Việt Nam là một lợi thế trong tiến trình chuyển đổi số - Ảnh 3.

- Theo quan điểm của ông, một chính phủ cần làm gì để thúc đẩy chuyển đổi số và xây dựng các thành phố thông minh nói chung?

Tôi nghĩ những chính sách của chính phủ Việt Nam là rất quan trọng. Chính phủ cũng khuyến khích các doanh nghiệp tham gia chuyển đổi số hay xây dựng các thành phố thông minh. Ngoài ra, bài học từ các nước khác cũng khá quan trọng. Một quốc gia muốn xây dựng thành phố thông minh hay chuyển đổi số nên nhìn vào các dự án đó và chọn cho mình những phương án tốt nhất và phù hợp nhất.

Việc chuẩn bị nguồn nhân lực có thể đáp ứng nhu cầu mới cũng là yếu tố mấu chốt. Bên cạnh đó, chính phủ cần đóng vai trò khuyến khích hay thúc đẩy, chẳng hạn như thành lập các hiệp hội để kịp thời thích nghi với những đòi hỏi của Cách mạng công nghiệp 4.0.

Theo CafeF

 

Đối tác chiến lược