Đinh Hồng Bảo Phương

Đinh Hồng Bảo Phương

Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2019 với nhiều con số ấn tượng: GDP đạt 7,02%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 500 tỷ USD...

Nguồn VOV/ Tổng cục Thống kê

Theo Tổng cục Hải quan, tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong gần 20 năm (giai đoạn 2000-2019) ghi nhận dấu ấn 3.995 tỷ USD.

Quy mô xuất khẩu tiếp tục lớn mạnh hơn so nhập khẩu, thặng dư cán cân thương mại đã lên tới 10,94 tỷ USD. Ảnh: TTXVN

Báo cáo thống kê từ Tổng cục Hải quan cho biết, thời điểm cuối tháng 12/2019, trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đã cán mốc 500 tỷ USD. Tính trong 11 tháng của năm, quy mô xuất khẩu tiếp tục lớn mạnh hơn so nhập khẩu, thặng dư cán cân thương mại đã lên tới 10,94 tỷ USD. Quy mô xuất khẩu tiếp tục lớn mạnh hơn so nhập khẩu, thặng dư cán cân thương mại đã lên tới 10,94 tỷ USD.

Trong đó, tổng trị giá xuất nhập khẩu của nhóm doanh nghiệp doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 297,87 tỷ USD, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, mức tăng trưởng xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đạt15,1% và duy trì 3 năm liên tiếp với tốc độ tăng trên 10%.

Cán mốc 500 tỷ USD

Quay lại dấu mốc năm 2001, nền kinh tế Việt Nam ghi nhận trị giá xuất nhập khẩu ở mức khiêm tốn hơn 30 tỷ USD.  Sáu năm sau, tổng trị giá xuất nhập khẩu cả nước trong năm 2007 cán mốc 100 tỷ USD, đây là thời kỳ Việt Nam bắt đầu trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Theo đó, Việt Nam đang từng bước thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tranh thủ khả năng hợp tác thương mại, đầu tư, hội nhập, chuyển giao công nghệ, phát triển kinh tế đất nước.

Và, nền kinh tế đã ghi dấu những bước chuyển biến mạnh mẽ trong bối cảnh kinh tế, chính trị thế giới diễn biến phức tạp. Các nền kinh tế lớn có sự tăng trưởng không đồng đều. 

Nhìn lại chặng đường xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua cho thấy bước tiến mạnh mẽ của hoạt động xuất khẩu nhập khẩu. Tổng trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa trong gần 20 năm (giai đoạn 2000-2019) của Việt Nam đã đạt 3.995 tỷ USD. 

Cụ thể, tổng trị giá xuất nhập khẩu tăng lên 200 tỷ USD vào năm 2011 và 300 tỷ USD trong năm 2015. Xu thế tăng trưởng tỷ trọng xuất nhập khẩu tiếp tục tăng nhanh với 400 tỷ USD vào năm 2017. Và, dấu mốc 500 tỷ USD chính thức xác nhận vào nửa cuối vủa năm nay. 

Với kết quả này, Việt Nam liên tục nằm trong nhóm 30 nước, vùng lãnh thổ có trị giá xuất nhập khẩu hàng hóa lớn nhất trên phạm vi toàn cầu.Trong nội khối ASEAN, Việt Nam có vị trí thứ 3 về xuất nhập khẩu, chỉ sau Singapore và Thái Lan.

Cán cân thương mại thặng dư đổi chiều

Báo cáo cũng chỉ ra, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam đã đạt thặng dư liên tục sau một thời gian dài thâm hụt (nhập siêu) trước đó. 

Từ năm 2011 trở về trước, cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam luôn trong trạng thái thâm hụt, kéo dài. Giá trị nhập siêu lên đến hàng tỷ USD và đỉnh điểm lên tới 18,02 tỷ USD trong năm 2008. 

Nhưng từ năm 2012 đến nay, cán cân thương mại đã đổi chiều, thặng dư (xuất siêu) liên tục (trừ năm 2015, có mức thâm hụt trị giá 3,55 tỷ USD). Kết thúc năm 2018, xuất siêu hàng hóa của nước ta đã đạt 6,83 tỷ USD. 

Theo báo cáo  thống kê này, nếu như trước đây Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là 3 đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam thì sang năm 2013 đến nay, Hàn Quốc tăng tốc độ tăng vượt trội và chính thức vượt Nhật Bản, vươn lên trở thành đối tác thương mại hàng hóa lớn thứ 3 của Việt Nam. 

Cụ thể, trong 11 tháng từ đầu năm 2019, tổng trị giá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đạt 105,8 tỷ USD, tăng 8,7% so với cùng kỳ, Hoa Kỳ đạt 68,7 tỷ USD, tăng 24,5%, Hàn Quốc đạt 61,4 tỷ USD, tăng 1,8% và Nhật Bản đạt 36,3%, tăng 4,6%.

Diễn biến trong 11 tháng, hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh, theo đó xuất sang các thị trường Trung Quốc và ASEAN lại tăng chậm lại đồng thời xuất sang Liên minh châu Âu (EU28) đã giảm nhẹ.

Theo đại diện của Tổng cục Hải quan, để đạt được những kết quả nêu trên, thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp cùng các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện đồng bộ việc triển khai các Nghị quyết (như Nghị quyết: 01/NQ-CP, 02/NQ-CP, 35/NQ-CP, 36a/NQ-CP, 19/NQ-CP...) nhằm đẩy mạnh việc cải cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, minh bạch, tạo thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp. 

“Trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực Hải quan, thời gian qua đã có nhiều nỗ lực và kết quả trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về hải quan, cải cách thể chế, hiện đại hóa hải quan,” đại diện Tổng cục Hải quan chia sẻ.

Nguồn TTXVN

 

Nền kinh tế Việt Nam đã thể hiện rõ sự kiên cường khi chỉ số PMI sản xuất suy giảm và niềm tin kinh doanh trên toàn cầu tụt dốc.

Ảnh: Bizlive.

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có thể nằm trong top 3 nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ở Đông Á trong năm 2019.

So với mức tăng trưởng 3% của GDP toàn cầu và 4,3% của khu vực Đông Á trong năm 2018, dự báo tăng trưởng của cả năm 2019 chỉ ở mức 2,6% và 4%. Dù vậy, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục ghi nhận tăng trưởng 6,8% - thấp hơn so với năm 2018 nhưng bằng với năm 2017. Động lực mang lại đà tăng trưởng ấn tượng xuất phát từ sức tiêu thụ nội địa và hoạt động sản xuất theo định hướng xuất khẩu.

Chỉ số lạm phát CPI tháng 10/2019 ở mức 2,2%, mặc dù giá cả của lĩnh vực y tế và giáo dục tăng mạnh. Dịch tả heo châu Phi bùng phát, nhưng dường như không tác động quá nhiều đến giá thực phẩm. Ngoài ra, giá nhiên liệu thấp hơn còn giúp kìm hãm áp lực lạm phát. Với mức lạm phát tương đối thấp và tăng trưởng tiền lương danh nghĩa ấn tượng (13,1%) khi người lao động dần rút khỏi lĩnh vực nông nghiệp để chuyển sang các công việc sản xuất và dịch vụ có hiệu quả cao hơn, tỷ lệ nghèo đói cũng nhờ đó mà suy giảm. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ người sống trong cảnh cực kỳ nghèo đói (ít hơn 1,9 USD/ngày) thấp hơn 2%.

Chính sách tiền tệ nghiêng về hướng thận trọng, trong đó tăng trưởng tín dụng ở mức 12,5% - thấp hơn mục tiêu 14% của NHNN trong năm 2019.

Xét về khía cạnh tài khóa, tình hình đã được cải thiện nhờ kết hợp giữa giảm chi tiêu vốn Chính phủ và bán tài sản. Chi tiêu vốn giảm 5,6% trong giai đoạn 2018-2019, phần lớn là nhờ tốc độ giải ngân chậm rãi ở một số bộ và tỉnh.

Xét về nguồn thu, chính phủ tiến hành bán các tài sản như quyền sử dụng đất và các ngôi nhà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, đồng thời thoái vốn ra khỏi các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy vậy, đây chỉ là những sự kiện chỉ diễn ra 1 lần và cần phải nỗ lực hơn để cải thiện khả năng thu thuế.

Nhờ những bước cải thiện về tài khóa, nợ công đã giảm xuống 56% GDP, thấp hơn mức trần 65% mà Quốc hội ấn định, nhưng vẫn cao hơn mức trần 55% mà Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) khuyến nghị để quản lý nợ dài hạn một cách thận trọng.

Về thương mại, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng 8,4% trong 9 tháng đầu năm 2019, thấp hơn mức 15,8% của cùng kỳ năm 2018. Đây vẫn là thành quả đáng khen ngợi trong bối cảnh đối mặt với nhiều “cơn gió ngược” và bất ổn trong nền kinh tế toàn cầu. Xuất khẩu đến Mỹ tăng gần 28% trong 9 tháng đầu năm 2019, cao hơn nhiều so với mức 18% của năm 2018. Điều này cho thấy trong ngắn hạn, Việt Nam vẫn là quốc gia hưởng lợi từ cuộc thương chiến Mỹ-Trung.

Dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam cũng tiếp tục duy trì ở mức cao đã ghi nhận trong năm 2017 và 2018, từ đó cung cấp thêm bằng chứng cho thấy kinh tế Việt Nam đứng vững trong bối cảnh bất ổn dâng cao. Kết quả là dự trữ ngoại hối đã tăng ở mức tương đương 0,4% kim ngạch nhập khẩu từ cuối năm 2018 đến cuối năm 2019.

Theo báo cáo gần đây từ Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), Việt Nam đã tăng 10 bậc trong bảng xếp hạng về khả năng cạnh tranh trên toàn cầu Global Competitiveness Index. Về trung hạn, Ngân hàng Thế giới dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng quanh mức 6,5% trong 2-3 năm tới. Thế nhưng, mối liên kết yếu ớt giữa các công ty nước ngoài và các công ty trong nước theo định hướng xuất khẩu vẫn là vấn đề đáng lo ngại. Sự thiếu vắng nguồn tài trợ dài hạn và thiếu hụt lao động lành nghề là hai vấn đề thể hiện rất rõ trong khu vực tư nhân Việt Nam.

Cùng lúc đó, sự chậm lại của quá trình thoái vốn và cải cách doanh nghiệp Nhà nước – vốn đã bắt đầu trong năm 2016 – cũng là rào cản lớn. Chắc chắn là nợ công giảm xuống sẽ giải phóng áp lực đối với quá trình thoái vốn tài sản Nhà nước. Thế nhưng, cuộc cải cách cấu trúc phải được tiếp tục nếu khu vực tư nhân Việt Nam không còn sôi động trong vài năm tới.

Kinh tế Việt Nam đã đứng vững trước những cơn gió ngược và bất ổn. Hy vọng là Việt Nam sẽ tận dụng tốt sự kiên cường của nền kinh tế và tiếp tục cải cách cấu trúc để nâng tầm đất nước lên những đỉnh cao mới.

Bài viết thể hiện quan điểm của bà Suiwah Leung, Giáo sư danh dự về kinh tế học tại Trường Chính sách Công Crawford, Đại học Quốc Gia Úc.

Nguồn East Asia Forum

Việt Nam vẫn là điểm đến lý tưởng cho làn sóng chuyển dịch sản xuất của các công ty nhờ vào chi phí hoạt động thấp...

Ảnh: Baoquocte.

Theo nhận định của Công ty chứng khoán VNDirect, chiến tranh thương mại đã đẩy mạnh xu thế dịch chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang các quốc gia khác trong năm 2019, minh chứng bởi dòng vốn FDI từ Trung Quốc và Hồng Kông vào Việt Nam tăng mạnh trong 9 tháng 2019.

Bên cạnh đó, chiến lược “Trung Quốc +1” với mục tiêu mở rộng hoạt động các nhà máy Trung Quốc sang các quốc gia khác nhằm đa dạng hóa rủi ro và giảm chi phí nhân công cũng thúc đẩy sự dịch chuyển của các công ty từ Trung Quốc sang ASEAN. Đây là cơ hội lớn cho các công ty vận hành khu công nghiệp hưởng lợi từ dòng vốn FDI trong vài năm tiếp theo.

So với các quốc gia trong khu vực (Phillippines, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Myanmar) về mức độ thu hút vốn FDI, Việt Nam vẫn là quốc gia tiềm năng cho sự chuyển dịch của các công ty nhờ vào chi phí hoạt động thấp.

Dù giá thuê đất khu công nghiệp tại Việt Nam tăng mạnh trong năm 2019 nhưng với mức giá 103,5 USD/m2 /kỳ thuê vẫn là mức thấp thứ hai trong các quốc gia trong khu vực, chỉ cao hơn giá thuê đất tại Myanmar.

Tại Việt Nam, lương công nhân chỉ bằng một nửa so với Thái Lan và Malaysia. Chỉ có Indonesia có mức giá điện thấp hơn so với Việt Nam, trong khi Việt Nam có chi phí xây dựng nhà xưởng thấp nhất so với Malaysia và Indonesia.

Bên cạnh chi phí hoạt động thấp, Việt Nam đã giảm thuế thu nhập doanh nghiệp từ mức 22% xuống mức 20% vào năm 2016 cho tất cả các công ty trong nước và nước ngoài để tăng cường thu hút sản xuất.

Ngoài ra, các công ty tại các khu công nghiệp còn được hưởng các ưu đãi khác như miễn/giảm thuế và miễn thị thực. Các ưu đãi thuế phổ biến dành cho các công ty ở các khu công nghiệp bao gồm miễn thuế trong 2 đến 4 năm, giảm thuế trong 3 đến 15 năm và miễn thuế nhập khẩu.

Bên cạnh lợi thế về chi phí hoạt động, VNDirect cho rằng Hiệp định Thương mại tự do (FTA) sẽ thu hút thêm dòng vốn, đặc biệt là EVFTA mở thêm cánh cửa cho dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam.

Vào thời điểm tháng 10/2019, đã có 12 FTA có hiệu lực và FTA với liên minh châu Âu (EVFTA) đã được ký vào 30/06/2019. EVFTA đang trong quy trình chấp thuận nội bộ tại châu Âu và Việt Nam trước khi chính thức có hiệu lực.

Việt Nam đang tăng cường sử dụng lợi thế từ các FTA để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Theo Bộ Công Thương, giá trị xuất khẩu có áp dụng ưu đãi thuế quan FTA trong năm 2018 đạt 46,2 triệu USD, tương đương với 39% tổng giá trị xuất khẩu đến các thị trường có ký kết FTA với Việt Nam. 

Thuế xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam đến liên minh Châu Âu sẽ được xóa bỏ ngay khi EVFTA có hiệu lực hoặc trong thời gian ngắn sau đó (tối đa là 7 năm). Đây là mức cam kết cao nhất mà Việt Nam đã đạt được trong số các FTA đã ký kết.

Hiện nay, chỉ 42% giá trị xuất khẩu của Việt Nam tới liên minh châu Âu được hưởng mức thuế 0% thông qua biểu thuế ưu đãi toàn cầu (GSP). Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) ước tính rằng EVFTA sẽ giúp GDP của Việt Nam tăng 4,3% cho đến năm 2030.

Tổng giá trị xuất khẩu tới liên minh Châu Âu ước tính sẽ tăng 44,4% cho đến năm 2030. VNDirect cho rằng hiệp định EVFTA sẽ giúp thúc đẩy đầu tư sản xuất tới Việt Nam, giúp duy trì luồng vốn FDI tới trong các năm tới.

Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng của dòng vốn FDI từ Trung Quốc và Hồng Kông trong 2 năm vừa qua, các dự án FDI cũng tạo sự lưu ý của chính phủ về vấn đề môi trường và đòi hỏi các quy định pháp luật phải thắt chặt hơn về vấn đề này.

Từ năm 2020, các dự án FDI sẽ đối diện với các quy chuẩn môi trường khắt khe hơn so với hiện tại. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị Quyết 50-NQ/TW vào tháng 8/2019, theo đó từ chối cấp phép cho các dự án sử dụng các công nghệ cũ và gây hại môi trường. 

VNDirect đánh giá nghị quyết này sẽ tăng thời gian xem xét chấp thuận các dự án FDI cũng như khiến một số nhà đầu tư thay đổi quan điểm đầu tư vào Việt Nam, khiến dòng vốn FDI chậm lại trong ngắn hạn. Tuy nhiên, xét về dài hạn, chất lượng dòng vốn FDI sẽ dần được nâng cao hơn, hướng đến công nghệ cao và sản xuất “xanh”.

Theo Nhịp Cầu Đầu Tư

Lô xe buýt 15 chiếc mang thương hiệu thuần Việt Thaco Bus được xuất khẩu sang Philippines giúp thỏa giấc mơ người Việt có thể làm ra và đưa chiếc xe của mình ra thế giới.

Ngày 28-12, tại cảng Chu Lai (Khu Kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam), Công ty CP Ôtô Trường Hải (THACO) đã tổ chức lễ bàn giao xe Bus THACO thương hiệu Việt Nam xuất khẩu sang Philippines và xuất khẩu các lô linh kiện phụ tùng ôtô sang Hàn Quốc và Nhật Bản.

Thiết kế hoàn toàn mới

Ông Trần Bá Dương, Chủ tịch HĐQT THACO, cho biết từ năm 2017 đến nay, THACO và đối tác Philippines Auto Delta đã nghiên cứu, khảo sát thị trường Philippines để thiết kế và phát triển sản phẩm xe buýt theo yêu cầu của khách hàng. Đến ngày 16-5 vừa qua, THACO hoàn thiện 2 xe buýt mẫu xuất sang Philippines để chạy thử nghiệm và được khách hàng Philippines hài lòng về chất lượng sản phẩm. "Đây là mẫu xe được Trung tâm R&D THACO Bus thiết kế hoàn toàn mới, mang thương hiệu THACO với tỉ lệ nội địa hóa trên 45%, sử dụng động cơ đạt tiêu chuẩn khí thải Euro 5, tiết kiệm nhiên liệu và thân thiện với môi trường" - ông Trần Bá Dương thông tin.

Đặc biệt, phần ngoại thất xe bao gồm thân vỏ, khung xe, linh kiện cơ khí, linh kiện composite và phần nội thất như hệ thống chiếu sáng, ghế, dây điện, kính… được thiết kế và sản xuất hoàn toàn tại Chu Lai. Từ đó, hàm lượng nội địa hóa và hàm lượng công nghệ cho sản phẩm xe buýt THACO được gia tăng, đồng thời, bảo đảm đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.

Ước mơ xuất khẩu ôtô Việt thành sự thật - Ảnh 1.

THACO chính thức xuất khẩu 15 chiếc xe thương hiệu Thaco Bus sang thị trường Philippines Ảnh: TRẦN THƯỜNG

Trước đó, ngày 23-12, THACO cũng đã xuất khẩu 1 chiếc xe bus mẫu sang Singapore. Ngày 24-12, doanh nghiệp (DN) ôtô này xuất khẩu lô đầu tiên 120 xe du lịch Kia Cerato phiên bản Deluxe được sản xuất tại Nhà máy Thaco Kia ở Khu Công nghiệp Thaco Chu Lai - Quảng Nam. Tính chung trong năm 2019, THACO xuất khẩu được 186 ôtô, gồm 21 xe buýt sang các thị trường Philippines, Thái Lan, Singapore; 33 xe tải sang Campuchia và 11 sơ mi rơ-moóc sang Mỹ cùng 14,5 triệu USD linh kiện phụ tùng.

Góp phần cân bằng cán cân thương mại

Ông chủ THACO nhìn nhận sự kiện xuất khẩu xe buýt THACO thương hiệu Việt Nam sang Philippines cùng mục tiêu xuất khẩu 1.026 ôtô các loại sang Myanmar, Thái Lan… vào năm 2020 có ý nghĩa hết sức quan trọng cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam nói chung và THACO nói riêng trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh một cách sòng phẳng, lành mạnh trong khu vực. Qua đó, khẳng định khả năng hiện thực hóa chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam của Chính phủ, Bộ Công Thương và chiến lược xuất khẩu ôtô, linh kiện phụ tùng nhằm góp phần giảm nhập siêu và cân bằng cán cân thương mại. "THACO quyết tâm thực hiện chiến lược xuất khẩu ôtô và linh kiện phụ tùng để có thể cân bằng được ít nhất 20% cán cân thương mại, tiền tệ cho lĩnh vực sản xuất ôtô trong năm 2020. Nếu cộng thêm xuất khẩu ở lĩnh vực nông nghiệp, chúng tôi có thể cân bằng cán cân thương mại và tiền tệ ở mức 50%" - lãnh đạo THACO tự tin.

Ông Trần Bá Dương cũng chia sẻ bản thân DN có khả năng xuất khẩu nhiều hơn con số 1.026 xe vào năm 2020 nhưng muốn làm một cách thận trọng để bảo đảm kế hoạch phát triển bền vững, an toàn; tránh gây mất uy tín nếu để xảy ra sơ suất dẫn đến phải thu hồi xe.

"Tuy nhiên, chúng tôi vẫn cố gắng đẩy doanh số, doanh thu xuất khẩu mỗi năm tăng lên gấp đôi" - ông Dương nói thêm và bày tỏ mong muốn Bộ Công Thương quan tâm hơn đến kế hoạch xuất khẩu của DN để hỗ trợ kịp thời, đẩy mạnh triển khai các giải pháp phát triển ngành công nghiệp ôtô và công nghiệp hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho DN tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh đánh giá sự kiện là kết quả bước đầu của chiến lược công nghiệp ôtô Việt Nam - bản chiến lược không chỉ lãnh đạo nhà nước mà người dân đều đau đáu trông chờ, mặc dù đã có lúc không thành công như mong đợi. "Mặc dù giá trị xuất khẩu của THACO mới khoảng 50 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước hơn 500 tỉ USD nhưng đây là sự kiện ý nghĩa. Nó đưa Việt Nam thành quốc gia có vị trí trong bản đồ công nghiệp ôtô thế giới, góp phần hình thành cơ cấu xuất nhập khẩu theo đúng định hướng bền vững hơn nữa" - bộ trưởng nhận xét.

Theo CafeF

Do AI ngày càng phát triển, nhiều ứng dụng AI hơn có thể sẽ giúp các doanh nghiệp tăng trưởng cơ sở của mình, đặc biệt trong những lĩnh vực như tiếp thị, dịch vụ khách hàng...

Năm 2019 dường như sẽ được ghi nhận là năm bước ngoặt khi sự đổi mới về công nghệ kỹ thuật số đã trở nên rất phổ biến. Những năm gần đây, đổi mới công nghệ đã trở thành xu thế không thể đảo ngược và tăng tốc.

Các ngành nghề buộc phải thích ứng với những cách thức hoạt động mới, hầu hết liên quan đến sự chuyển đổi kỹ thuật số mà thế giới đã và đang trải nghiệm, từ trí tuệ nhân tạo (AI) đến blockchain và Internet Vạn vật (IoT).

Công nghệ kỹ thuật số mới đang tác động mạnh đến mọi ngành nghề, và dự kiến tác động đó sẽ càng tăng mạnh trong năm 2020. Giới doanh nghiệp không thể bỏ qua xu thế này.

Theo nghiên cứu của Trường Kinh doanh Harvard năm 2016, những doanh nghiệp ứng dụng chuyển đổi công nghệ kỹ thuật số đã tăng trưởng trung bình 55% tổng lợi nhuận trong giai đoạn ba năm, trong khi những công ty còn lại chỉ tăng trưởng 37% trong cùng thời kỳ.

Theo một nghiên cứu khác do DXC và báo The Economist thực hiện và công bố, 68% giới lãnh đạo doanh nghiệp cấp cao cho biết tăng trưởng lợi nhuận trong ba năm qua là hệ quả của sự chuyển đổi kỹ thuật số, và 74% nhận định lợi nhuận tăng là nhờ chiến lược công nghệ số của họ.

Trong bối cảnh đó, trang mạng Information Age đã đưa ra năm xu thế chuyển đổi công nghệ kỹ thuật số lớn mà giới doanh nghiệp cần nắm bắt trong năm 2020.

1. IoT là động lực của tăng trưởng công nghệ số

Ước tính đã có gần 27 tỷ thiết bị sử dụng IoT trên thế giới tính đến tháng 8/2019 và con số này dự kiến sẽ tăng lên 75 tỷ vào năm 2025. Hiện có khoảng 8,4 tỷ thiết bị kết nối trên khắp thế giới.

Dù không cao như ước đoán trước đó của giới chuyên gia, song ý nghĩa của IoT không chỉ ở việc giúp thiết bị thông minh thu thập và lưu trữ dữ liệu.

Thay vào đó, tầm quan trọng của IoT đó là giúp những công nghệ như phân tích nâng cao (advanced analytics), mạng viễn thông 5G, công nghệ cảm biến và điện toán biên (edge computing) trở nên thực sự hiệu quả.

Với những luồng dữ liệu khổng lồ từ các thiết bị thông minh, giới doanh nghiệp hiện đặc biệt tập trung vào hệ thống phân tích, dựa trên AI, để từ đó có thể đưa ra hành động thích hợp.

Do hầu hết công ty đều muốn có thông tin ở thời gian thực (real-time), hoặc gần thực tế nhất có thể, doanh nghiệp truyền thông cần phải phát triển những mạng lưới chuyển tải nhanh chóng và hiệu quả khối dữ liệu lớn trong thời gian ngắn nhất có thể.

Đó là lí do mạng viễn thông 5G đang được đặc biệt chú ý.

Cùng với việc thiết bị IoT đang rất phổ biến, nhiều doanh nghiệp sẽ nhận thấy xử lí dữ liệu ở nhiều nơi sẽ lợi ích hơn việc tập trung trên một server chính, từ đó dẫn đến sự phát triển của các hệ thống điện toán biên.

2. Tốc độ là số 1

Trong kỷ nguyên số, nguyên tắc cạnh tranh cơ bản chưa bao giờ thay đổi. Để đạt lợi ích kinh doanh, phải là người đi đầu và cũng là người tốt nhất.

Đi trước đồng nghĩa với việc phải xâm nhập thị trường và có lượng khách hàng cụ thể trước khi cạnh tranh trong giới bắt đầu, tạo nguồn cung cần thiết để đưa ra sản phẩm hoặc dịch vụ trước tiên, cũng như có năng lực nhanh chóng quy hoạch, phân bổ nhân sự khi công ty mở rộng quy mô.

Tất cả những điều này đòi hỏi một tiến trình xử lý nhanh chóng, với những cách thức tìm kiếm thông tin thông minh và nhanh hơn cũng như phương thức đánh giá và phân loại dữ liệu nhanh và hiệu quả hơn.

3. Sự bùng nổ của blockchain

Với giá trị của Bitcoin hiện được định giá ở mức cao nhất mọi thời đại, điều dễ hiểu là công nghệ tiếp sức cho tiền ảo bắt đầu nhận được sự quan tâm lớn.

Một nghiên cứu mới đây của hãng kiểm toán Deloitte cho hay 55% số người tham gia cho biết blockchain đang được ưu tiên hóa trong tổ chức của họ, tăng 10 điểm % so với năm 2018.

Vậy Blockchain còn tác dụng nào khác ngoài việc giúp ẩn danh trong giao dịch bitcoin?

Thực tế cho thấy blockchain cũng rất hữu ích đối với bất cứ hàng hóa nào đòi hỏi xuất xứ, từ rượu vang đến những sản phẩm chuyển vận quốc tế; hay các hệ thống thanh toán nội dung bản quyền; thậm chí còn được ứng dụng để thiết lập cơ sở hạ tầng sạc xe điện.

Và đó mới chỉ là “phần nổi của tảng băng trôi."

4. Trí tuệ nhân tạo (AI)

AI là một trong những cụm từ nhận được nhiều phản ứng hứng thú nhất thời gian qua.

Người làm công có thể lo lắng, sợ hãi việc “những đội quân” robot sẽ thay thế họ, trong khi giới chủ lại nghĩ đến những khoản lợi nhuận mà AI có thể mang lại khi được ứng dụng ngày càng nhiều.

Hiện AI phần lớn được sử dụng như những chatbot trong tiếp xúc khách hàng, và không thành công lắm.

Tuy nhiên, do công nghệ ngày càng phát triển, nhiều ứng dụng AI hơn có thể sẽ giúp các doanh nghiệp tăng trưởng cơ sở của mình, đặc biệt trong những lĩnh vực như tiếp thị, phân tích, dịch vụ khách hàng và tự động hóa.

AI giúp doanh nghiệp hình thành chiến lược marketing và kế hoạch kinh doanh thông qua phân tích, tổng hợp dữ liệu.

Nó cũng có thể giúp các nhà sản xuất sản xuất hiệu quả hơn, thông qua phân tích hoạt động, hay như giúp chính phủ phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất.

Thậm chí, AI cũng giúp giới nghiên cứu y tế phân tích dữ liệu bệnh nhân nhằm xác định những liệu trình điều trị thích hợp và tốt hơn.

5. Từ Itops đến NoOps: Quản lý dữ liệu thông minh

Theo truyền thống, bộ phận IT luôn chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến máy tính trong một tổ chức.

Dù cơ cấu này là thuận tiện khi vấn đề nảy sinh, song lại khó để quản lý nguồn lực do bộ phận quản lý thường không hiểu vấn đề liên quan đến IT.

Chính vì thế, thông qua chuyển nhiều dịch vụ và ứng dụng lên “đám mây”, các tổ chức sẽ có khả năng quản lý tốt hơn. Trong bối cảnh đó, xu hướng lớn tiếp theo chính là sự tự động hóa của Itops, bằng cách áp dụng những hệ thống thông minh, dựa trên AI, giúp mọi hoạt động trở nên nhịp nhàng hơn.

Trong môi trường máy tính NoOps tự động và ứng dụng AI, những việc như cập nhập hay thay đổi hệ thống được các hệ thống thông minh tự động thực hiện, qua đó tránh được khả năng sai sót của con người.

Tuy nhiên, để áp dụng thành công AI cho bộ phận IT hay những bộ phận khác, các tổ chức cần phải sẵn sàng cho ý tưởng này.

Bởi nó đồng nghĩa nhiều bộ phận sẽ phải từ bỏ quyền kiểm soát trong nhiều năm, cũng như làm quen với cách thức mới.

Để khắc phục, cần phải đảm bảo mọi nhân viên đều hiểu rõ tình thế và giới quản lý cũng cần phải nhận thức AI cần phải là một phần hợp nhất trong hoạt động của cả tổ chức.

Theo Vietnamplus.vn

Bất động sản Việt Nam hút được đầu tư nước ngoài sẽ góp phần giảm bớt sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Dòng vốn ngoại đang tăng dần trên thị trường bất động sản

Dòng vốn ngoại đang tăng dần trên thị trường bất động sản.

Dòng tiền từ ngân hàng đang giảm dần

Dòng vốn vào bất động sản trong 2019 từ tín dụng bổ sung thêm cho bất động sản dự tính tăng thêm khoảng 300 nghìn tỷ.

Trong khi, đó 4 dòng vốn còn lại gồm tư nhân, FDI, trái phiếu doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu tương đương 240.000 tỷ. Nếu trước đây dòng vốn tín dụng ngân hàng chiếm phần lớn nguồn vốn đầu tư vào bất động sản thì nay tỷ lệ này đã thay đổi. Trong năm qua, 60% vốn cho bất động sản đến từ ngân hàng, 40% đến từ các khu vực khác.

Theo ông Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, chúng ta băn khoăn về Thông tư 22 vừa qua của Ngân hàng Nhà nước. Chính tôi là người đề xuất phải có một thông tư như thế. Việc này là cần thiết để định hướng tín dụng vào những chỗ bất động sản gắn với thực tiễn, bớt đầu cơ.

“Thị trường lành mạnh về lâu dài,  thông tư này sẽ cực kỳ khuyến khích cho vay xây nhà, mua nhà, chữa nhà vì sắp tới cho vay chỗ này trọng số chỉ dưới 50%, bằng một nửa so với cho vay thương mại thông thường – phân khúc này chiếm tới 67% tổng lượng vốn đổ vào bất động sản” - ông Cấn Văn Lực nói.

Ông Nguyễn Mạnh Hà, Chủ tịch HĐQT Landora Group cho biết, chính sách vẫn có những hạn chế, hạn chế lớn nhất là sự điều tiết của Nhà nước, trong đó có tổng "room" tín dụng cho bất động sản.

“Trong năm 2020, Thông tư mới nhất của Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hạn chế tín dụng bất động sản, tôi cho rằng tình hình với doanh nghiệp bất động sản sẽ vẫn ổn định. Nhưng vấn đề nằm ở các chính sách, thủ tục cấp phép. Cần phải làm sao để đơn giản nhất, đặc biệt là trong cách tính thuế và có cơ chế làm sao để doanh nghiệp làm việc với cơ quan chức năng được thuận lợi hơn. Đây là điều chúng tôi mong muốn nhất chứ không phải vấn đề vốn” - ông Nguyễn Mạnh Hà nói.

Dòng vốn ngoại “rộng cửa” trong năm 2020

Bà Nguyễn Hồng Vân - Giám đốc thị trường Hà Nội - JLL Việt Nam đánh giá, khi dòng vốn ngoại đi vào thị trường thì sẽ có nhiều tác động tích cực cho thị trường chứ không phải là tiêu cực. Thời gian qua, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, họ muốn đầu tư hoặc mua, tìm kiếm đối tác Việt Nam để liên doanh liên kết.

“Đây là dòng tiền tiềm năng, họ đem theo kinh nghiệm, dòng vốn. Các doanh nghiệp trong nước có thể tìm được các nhà đầu tư nước ngoài thì không chỉ có thêm tiền mà còn có thể tích luỹ thêm kinh nghiệm để phát triển dự án của mình lên một tầm cao hơn” - bà Nguyễn Hồng Vân nói.

Các nhà đầu tư ngoại cũng không bị giới hạn tầm nhìn ở một lĩnh vực nào mà họ đầu tư vào nhiều lĩnh vực như nhà thương mại, chung cư…

Hiện nay, vốn đầu tư của Nhật Bản, Hàn Quốc là những dòng vốn tốt. Còn Trung Quốc cũng đầu tư nhiều nhưng chủ yếu là khu công nghiệp, còn trung tâm thương mại, nhà phố thì nguồn vốn nhiều nhất là Hàn Quốc và Nhật Bản.

Bất động sản là nhóm ngành thứ 2 thu hút vốn FDI trong năm 2019 với sự thay đổi mạnh mẽ về quốc gia và khu vực đầu tư vào Việt Nam. Nếu trước đây Nhật Bản, Hàn Quốc là 2 quốc gia đầu tư FDI vào Việt Nam lớn nhất thì năm nay nguồn vốn FDI lớn nhất lại đến từ Hồng Kông.

Xét riêng tại Hà Nội, căn hộ là thị trường chính đang được mọi người quan tâm. Trong năm 2019, đây là thị trường rất nhộn nhịp. Các dự án chung cư tại Hà Nội từ năm 2010 mọc lên với mật độ dày đặc cả từ trung tâm đến rìa trung tâm (cách 40 -50 phút đi vào trung tâm).

Tính đến tháng 9 đã có 270.000 căn hộ được chào bán trên thị trường. Giá bán tăng trưởng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường đón nhận 11.000 căn hộ, riêng quý 4/2019 cho thấy thị trường đang rất nhộn nhịp không chỉ thu hút nhà đầu tư lẫn người mua.

Dòng vốn ngoại và kiều hối đổ vào thị trường bất động sản sẽ tăng lên, xu hướng mua bán - Sáp nhập doanh nghiệp (M&A) tiếp tục diễn ra. Doanh nghiệp nước ngoài sẽ liên kết với các đơn vị trong nước để tạo lập các sản phẩm bất động sản chất lượng nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.

Theo Tạp Chí Tài Chính

 

Nghị định 96/2019/NĐ-CP quy định về khung giá đất vừa được Chính phủ ban hành, mức giá tối đa đối với đất ở TP Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (TPHCM) là 162 triệu đồng/m².

Kết quả hình ảnh cho đất tp hcm và hà nội 162 triệu

Đất ở TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là 162 triệu đồng/m².

Nghị định trên quy định khung giá đất đối với nhóm đất nông nghiệp gồm khung giá đất trồng cây hàng năm (gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm khác); khung giá đất trồng cây lâu năm; khung giá đất rừng sản xuất; khung giá đất nuôi trồng thủy sản và khung giá đất làm muối.

Đối với nhóm đất phi nông nghiệp, nghị định quy định khung giá đất ở tại nông thôn; khung giá đất thương mại, dịch vụ tại nông thôn; khung giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ tại nông thôn; khung giá đất ở tại đô thị; khung giá đất thương mại, dịch vụ tại đô thị; khung giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ tại đô thị. Nghị định cũng quy định 7 vùng kinh tế để xây dựng khung giá đất. 

Cụ thể, vùng trung du và miền núi phía Bắc, với vùng kinh tế này, khung giá đất quy định giá đất ở tại đô thị loại 1 đến loại 5 tối thiểu là 50.000 đồng/m², tối đa là 65 triệu đồng/m². Vùng Đồng bằng sông Hồng, giá đất ở tại khu vực này được quy định với các đô thị đặc biệt, đô thị từ loại 1 đến loại 5 có mức tối thiểu là 120.000 đồng/m², tối đa là 162 triệu đồng/m². Vùng Bắc Trung bộ có khung giá đất ở tại đô thị từ loại 1 đến loại 5 tối thiểu là 40.000 đồng/m², tối đa là 65 triệu đồng/m². Vùng duyên hải Nam Trung bộ với các đô thị từ loại 1 đến loại 5, giá đất ở tại đô thị tối thiểu 50.000 đồng/m², tối đa là 76 triệu đồng/m². Vùng Tây Nguyên có khung giá đất ở tại đô thị từ loại 1 đến loại 5 tối thiểu 50.000 đồng/m², tối đa là 48 triệu đồng/m². Vùng Đông Nam bộ giá đất ở tại đô thị vùng này với các đô thị: đặc biệt, từ loại 1 đến loại 5, tối thiểu là 120.000 đồng/m², tối đa 162 triệu đồng/m². Vùng đồng bằng sông Cửu Long có khung giá đất theo loại đô thị từ 1 đến 5, có giá tối thiểu 50.000 đồng/m², tối đa 65 triệu đồng/m².

Khung giá đất trên được sử dụng làm căn cứ để UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất tại địa phương. Nghị định cũng yêu cầu UBND cấp tỉnh căn cứ vào thực tế tại địa phương được quy định mức giá tối đa trong bảng giá đất, bảng giá đất điều chỉnh cao hơn không quá 20% so với mức giá tối đa của cùng loại đất trong khung giá đất.

Theo Tạp Chí Tài Chính

Theo nhận định của Ngân hàng Thế giới (WB), kinh tế Việt Nam đạt kết quả tích cực trong năm 2019 với tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 6,8%, nợ công giảm gần 8 điểm % so với năm 2016 và thương mại thặng dư liên tiếp bốn năm. Đây là những kết quả ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang chững lại.

[Infographics] Kinh tế Việt Nam 2019 qua góc nhìn của WB - Ảnh 1

Theo TTXVN

Tính đến ngày 20/12/2019, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,02 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2018.

[Infographics] Thu hút FDI năm 2019 đạt 38,02 tỷ USD - Ảnh 1

Theo TTXVN

Đối tác chiến lược