News Reviews

Đinh Hồng Bảo Phương

Đinh Hồng Bảo Phương

GDP Việt Nam sẽ chính thức được điều chỉnh theo hướng quy mô mở rộng vào tháng này để đáp ứng các chuẩn mực quốc tế.

GDP Việt Nam sẽ tăng thêm 25,4% vì lý do này

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hãng tin Reuters vừa dẫn lời ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cuối tháng 11 Việt Nam sẽ chính thức công bố điều chỉnh quy mô GDP giai đoạn 2011-2017.

Trước đó, vào tháng 8, Tổng cục Thống kê cho biết sẽ tăng kích cỡ quy mô GDP của Việt Nam lên 25,4% nhằm đáp ứng các chuẩn mực quốc tế và phản ánh tốt hơn kích cỡ quy mô và cấu trúc nền kinh tế.

"Chúng tôi đã đệ trình kết quả sửa đổi lên Thủ tướng và sẽ được công bố vào cuối tháng 11. Kết quả này là GDP sẽ tăng thêm 25, 4% cho giai đoạn 2011-2017. Chúng tôi phải công bố muộn vì cần thời gian tính toán các tác động của việc sửa đổi chỉ số vĩ mô", ông Lâm trả lời Reuters.

Trong tuyên bố hồi tháng 8, Tổng cục Thống kê cho rằng sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế tư nhân gần đây đã không được phản ánh đầy đủ trong dữ liệu thống kê. Vấn đề này cũng được các chuyên gia Mỹ và IMF giúp hỗ trợ tính toán lại.

Theo IMF, như vậy GDP của Việt Nam giai đoạn từ 2016-2020 sẽ dược định vị tăng trưởng từ 6,5-7%, và năm 2018 sẽ là 7,0 8% khi giá trị GDP đã là 240 tỉ USD.

Vào tháng trước, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết kỳ vọng GDP năm 2019 sẽ là 6,8% do được hỗ trợ bởi xuất khẩu và đầu tư nước ngoài gia tăng mạnh mẽ.

Theo Cafef

Thu hút đầu tư nước ngoài năm 2019 của Hà Nội dự kiến có thể đạt trên 8 tỉ USD.

Hà Nội dự kiến thu hút 8 tỉ USD đầu tư nước ngoài

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Theo báo cáo của UBND TP.Hà Nội, từ đầu năm đến nay, Hà Nội đã tập trung thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ như:

Chỉ đạo, đôn đốc hỗ trợ nhà đầu tư, doanh nghiệp từ khâu đăng ký kinh doanh đến triển khai dự án và tháo gỡ khó khăn; đồng thời rà soát các dự án có sử dụng đất chậm triển khai, tạo môi trường đầu tư lành mạnh và bình đẳng trong tiếp cận đất đai;

Tuyên truyền và triển khai thực hiện các chính sách của TP.Hà Nội về cải thiện môi trường đầu tư như Xây dựng và ban hành kế hoạch của UBND thành phố triển khai thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1.1.2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh , nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 định hướng đến năm 2021; Khuyến khích chuyển đổi hộ kinh doanh thành công ty...

Dự báo thu hút đầu tư nước ngoài năm 2019 sẽ đạt trên 8 tỉ USD, trong đó: 800 dự án mới, vốn đăng ký 1.500 triệu USD; 170 lượt dự án tăng vốn thêm 650 triệu USD; 1.200 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam, trị giá 5.850 triệu USD; 25 dự án giảm vốn 200 triệu USD. Lũy kế tổng số vốn đạt 42 tỉ USD (5.300 dự án còn hiệu lực).

Bên cạnh đó, về đầu tư trong nước, đến nay, Hà Nội đã quyết định chủ trương đầu tư 27 dự án đầu tư vốn ngoài ngân sách, tổng số vốn đầu tư 17,37 nghìn tỉ đồng; điều chỉnh chủ trương đầu tư 67 dự án, trong đó 47 dự án tăng vốn thêm 18,94 nghìn tỉ đồng…

Theo Cafef

TS Nguyễn Xuân Thành, ĐH Fulbright, cho biết như vậy tại hội thảo về doanh nghiệp thực hiện phòng vệ thương mại và hội nhập quốc tế trước cuộc thương chiến Mỹ-Trung diễn ra ngày 7-11.

Kết quả hình ảnh cho 10 nhà đầu tư rời trung quốc 6 nhà đầu tư đến việt nam

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hội thảo do Trung tâm Hỗ trợ hội nhập quốc tế TP.HCM phối hợp cùng Hiệp hội Các doanh nghiệp khu công nghiệp TP.HCM tổ chức.

TS Thành dẫn số liệu từ các cơ quan chức năng cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký mới giảm 14,6% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng số dự án lại tăng 25,9%. Đặc biệt, FDI ngành công nghiệp chế tạo, chế biến đăng ký mới đạt 9,1 tỉ USD, tăng tới 33,2%.

Đáng chú ý, ông Thành phân tích số liệu cho thấy trong cuộc thương chiến Mỹ-Trung , cứ 10 nhà đầu tư rời Trung Quốc (TQ) thì có khoảng sáu nhà đầu tư đến Việt Nam do môi trường đầu tư thuận lợi, có dư địa phát triển. Song các doanh nghiệp TQ dịch chuyển sang nước ta chủ yếu quy mô nhỏ và vừa.

“Như vậy, Việt Nam đang có cơ hội thu hút nhà đầu tư từ các nước, thay vì bị động từ các nhà đầu tư lớn như trước đây. Làn sóng dịch chuyển này có thể tác động làm tăng giá đất tại một số khu công nghiệp ở Việt Nam nhưng đi kèm đó là những quan ngại về quá tải cơ sở hạ tầng, môi trường ô nhiễm” - ông Thành nói.

Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số quan ngại từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đối với Việt Nam. Đó là thặng dư Việt Nam vào Mỹ tăng cao hàng chục tỉ USD. Đáng lo nhất là tình trạng hàng TQ núp bóng hàng Việt Nam rồi bán vào Mỹ để né thuế cao. Điển hình như vụ kho nhôm 4,3 tỉ USD xuất xứ TQ nghi đội lốt thương hiệu Việt chờ xuất đi Mỹ ở Vũng Tàu.

“Những vụ việc như thế này có thể khiến phía Mỹ áp dụng chế tài đối với các sản phẩm của Việt Nam. Đây là vấn đề mà Việt Nam cần xem xét thấu đáo. Bởi nếu bị Mỹ áp thuế cao thì Việt Nam dễ bị tổn thương hơn TQ, do sức chịu đựng của nền kinh tế TQ tốt hơn chúng ta” - ông Thành cảnh báo.

Số liệu từ cuộc hội thảo cũng chỉ ra tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng trưởng chậm lại trong những tháng đầu năm. Đáng chú ý, xuất khẩu hàng Việt sang TQ giảm khá mạnh. Ngược lại, hàng Việt xuất khẩu sang Mỹ tăng đột biến, như điện thoại tăng hơn 94%, điện tử hơn 68% và máy móc, thiết bị hơn 46%.

“Với tình hình như hiện nay, Việt Nam cần bình tĩnh, ứng xử khéo léo chứ không nên dựng thêm hàng rào đối với hàng hóa TQ vì họ vẫn là đối tác lớn đối với Việt Nam. Thay vào đó, nhà chức trách cần tăng cường kiểm tra xuất xứ hàng hóa từ Việt Nam sang Mỹ để hạn chế rủi ro” - TS Thành khuyến nghị.

Theo Cafef

Bên cạnh hai điểm nóng là Tây Ban Nha và Brazil, báo cáo của Fitch Solution đánh giá: Việt Nam có hy vong tăng trưởng cao về điện mặt trời trong thập kỷ tới.

Fitch Solutions: Việt Nam là "điểm đến đáng mong chờ" về điện mặt trời

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Các nhà phân tích Fitch Solutions Macro Research cho rằng Việt Nam là "điểm đến đáng mong chờ" về điện mặt trời, vì họ tin rằng hoạt động năng lượng mặt trời tích cực trong năm nay không phải là nhất thời, mà sẽ còn kéo dài trong thời gian tới. Báo cáo Điểm nóng đầu tư điện mặt trời chỉ ra, bên cạnh sự bùng nổ tại Tây Ban Nha và Brazil, Việt Nam cũng có khả năng phát triển một thế hệ năng lượng sạch mới.

Tây Ban Nha

Fitch gần đây đã nâng cấp dự báo cho năng lượng mặt trời tại Tây Ban Nha, ghi nhận những nỗ lực chung của chính phủ và khu vực tư nhân. Các nhà phân tích dự kiến ​​sẽ có một số lượng lớn các thỏa thuận mua điện tư nhân tại thị trường Tây Ban Nha, cũng như các dự án bán điện trực tiếp. Fitch hy vọng công suất năng lượng mặt trời của Tây Ban Nha sẽ tăng 11,4 GW trong giai đoạn từ nay đến 2028.

Tuy nhiên, các nhà phân tích nhấn mạnh những bế tắc chính trị gần đây của Tây Ban Nha là một yếu tố rủi ro tiềm ẩn. Cần thiết lập một liên minh chính phủ làm việc để cho phép Tây Ban Nha cải cách các vấn đề phải đối mặt với lĩnh vực này như cho phép các vấn đề, cũng như đưa ra các cuộc đấu giá mới, theo báo cáo.

Tây Ban Nha muốn 74% điện năng đến từ năng lượng tái tạo vào năm 2030 và đạt 100% vào năm 2050. Theo Fitch, nước này sẽ cần lắp đặt thêm 57 GW năng lượng tái tạo trong khoảng thời gian từ 2021 đến 2030 để đạt mục tiêu đầu tiên, nghĩa là hàng năm phải tăng công suất từ ​​3 GW trở lên.

Brazil

Báo cáo của Fitch đã ghi nhận giá điện mặt trời thấp kỷ lục của Brazil đạt được trong các cuộc đấu giá gần đây với tư cách là động lực cho sự phát triển trong tương lai. Các nhà phân tích lưu ý, mức giá thấp nhất đạt được này là cho các dự án có kế hoạch bán một phần sản lượng của họ trên thị trường giao ngay (the spot market) để bù đắp vào mức giá thấp đã thỏa thuận.

Fitch hy vọng chính phủ Brazil sẽ tiếp tục tận dụng mức giá thấp cho năng lượng mặt trời với các phiên đấu giá tiếp theo. Đồng thời, họ cũng dự đoán giá điện bán lẻ tăng - cùng với chi phí PV (Photovoltaics - quang điện) giảm - sẽ thúc đẩy sự phát triển của thế hệ năng lượng mặt trời phân tán, quy mô nhỏ. 

Các nhà phân tích dự báo công suất năng lượng mặt trời của Brazil sẽ tăng từ 3,3 GW trong năm nay lên khoảng 12 GW vào năm 2028.

Việt Nam

Fitch hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục có những tăng trưởng ấn tượng về năng lượng mặt trời trong thập kỷ tới, với mức độ chiếu xạ mặt trời cao và những nỗ lực hỗ trợ chính sách mạnh mẽ từ chính phủ. 

Chính phủ đang nhắm mục tiêu 12 GW công suất năng lượng mặt trời vào năm 2030 và đang cung cấp các ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Fitch hy vọng ưu đãi chính sách như vậy mang lại cho Việt Nam triển vọng hấp dẫn.

Cho dù đề xuất giá mua điện mặt trời FIT 2 giảm khoảng 20% so với dự án cũ đối với công suất năng lượng mặt trời nổi và mặt đất được ban hành vào tháng 9 có thể hạn chế phần nào sự quan tâm của nhà đầu tư, thì báo cáo cũng lưu ý: "Chúng tôi tin rằng giá FIT mới là 70,9 USD và 76,9 USD / MWh cho hai phân khúc năng lượng mặt trời, sẽ vẫn đủ cao để thu hút các nhà đầu tư".

Theo Cafef

Trên cương vị nước Chủ tịch ASEAN 2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định Việt Nam cam kết ủng hộ và sẽ thúc đẩy quan hệ giữa ASEAN và Mỹ.

Sáng 4/11, tại Bangkok, Thái Lan trong khuôn khổ các hoạt động tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 35, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN-Mỹ lần 7.

Thừa ủy quyền Tổng thống Mỹ Donald J. Trump, Cố vấn An ninh Quốc gia Robert C. O'Brien chuyển tới các nước thư của Tổng thống Mỹ Donald J. Trump, khẳng định cam kết của Mỹ đối với khu vực, hoan nghênh ASEAN triển khai Tầm nhìn ASEAN về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Nhân dịp này, Tổng thống Donald Trump mời lãnh đạo ASEAN thăm Mỹ trong năm 2020.

Cố vấn O’brien cho biết, để góp phần hỗ trợ các nước tham gia sâu rộng hơn vào tiến trình hội nhập khu vực, Mỹ đề xuất sáng kiến “Mạng lưới các điểm xanh” (Blue Dot Network). Theo đó các nước dẫn dắt sẽ đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để các nước khác dựa vào đó tham gia các dự án cơ sở hạ tầng chất lượng cao. Mỹ cũng đồng thời cam kết sẽ tham gia sâu hơn, phối hợp chặt chẽ hơn với ASEAN trong các cơ chế do ASEAN thành lập, dẫn dắt.

Thay mặt ASEAN, Thủ tướng Lào Thoonglun Sisoulith, nước điều phối, đã phát biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Mỹ với hòa bình, ổn định và thịnh vượng khu vực. Trên nền tảng này, quan hệ ASEAN-Mỹ có nhiều khởi sắc những năm qua, điển hình là phát triển trong hợp tác kinh tế, an sinh xã hội, giao lưu nhân dân... và đã có những bước tiến quan trọng, góp phần đáng kể trong việc xây dựng lòng tin, tăng cường hiểu biết, thúc đẩy đối thoại, hợp tác.

Viet Nam se tiep tuc thuc day quan he ASEAN - My hinh anh 1

Lãnh đạo các nước ASEAN và đại diện Mỹ tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-Mỹ lần 7. Ảnh: VGP.

Đề cập tình hình quốc tế và khu vực, các nước ASEAN tái khẳng định lập trường ủng hộ tự do thương mại, thượng tôn pháp luật, hành xử trách nhiệm, kêu gọi các nước lớn kiềm chế, không để các khác biệt, nhất là trong thương mại, gây ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường khu vực.

Trao đổi về tình hình quốc tế và khu vực, Cố vấn An ninh O’brien khẳng định lại lập trường của Mỹ, phản đối các hành vi ngăn cản hoạt động kinh tế hợp pháp trên biển, không tôn trọng chủ quyền và quyền chủ quyền của các nước và luật pháp quốc tế trên Biển Đông. Mỹ luôn mong muốn các nước ASEAN đề cao đoàn kết nhất trí, các bên kiềm chế, giải quyết hòa bình các tranh chấp, tôn trọng DOC và sớm xây dựng COC hiệu quả, phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982.

Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh Mỹ là một trong những đối tác lâu đời nhất của ASEAN. Thủ tướng hoan nghênh những cam kết của Mỹ với ASEAN, mong muốn Mỹ thể hiện trách nhiệm, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong định hình cấu trúc khu vực dựa trên luật lệ.

Thủ tướng chia sẻ sự phát triển thịnh vượng hai bên mang tính tương hỗ, bổ trợ lẫn nhau. Hiện, ASEAN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 của Mỹ, trong khi Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ 3 và nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ 2 của ASEAN. Thủ tướng hoan nghênh và khuyến khích các nhà đầu tư Mỹ tham gia vào các dự án phát triển hạ tầng và năng lượng tại ASEAN. Cùng các nước ASEAN khác, Thủ tướng ghi nhận lời mời của Tổng thống Donald Trump tới các lãnh đạo ASEAN.

Thủ tướng nêu rõ tầm quan trọng của Biển Đông, trách nhiệm của các nước đối với đường biển huyết mạch của thế giới, với 3.400 tỷ USD lưu lượng hàng hóa vận chuyển hàng năm. Nhắc lại lập trường nguyên tắc của ASEAN về Biển Đông được các Ngoại trưởng ASEAN tái khẳng định tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ khẳng định các nước, các bên đều có trách nhiệm đóng góp bảo vệ hòa bình, củng cố ổn định, thúc đẩy đối thoại, tăng cường hợp tác, cùng nhau xây dựng khu vực Biển Đông hòa bình, hợp tác và phát triển thịnh vượng.

Với tư cách là Chủ tịch ASEAN tiếp theo, Thủ tướng cam kết Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy để quan hệ ASEAN-Mỹ tiếp tục phát triển vì hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực.

Theo Báo Chính Phủ 

Tại buổi tiếp xã giao tân Đại sứ Australia tại Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM Nguyễn Thành Phong bày tỏ mong muốn thúc đẩy hợp tác giữa TP.HCM và Australia.

Tại buổi tiếp xã giao bà Robyn Mudie, tân Đại sứ Australia tại Việt Nam, ông Nguyễn Thành Phong nhấn mạnh mối quan hệ tốt đẹp giữa Australia và Việt Nam nói chung cũng như với TP.HCM nói riêng.

Chuyến thăm của Thủ tướng Australia Scott Morrison đến Việt Nam hồi tháng 8 vừa qua đã phần nào khẳng định mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đang phát triển sâu rộng, ông Nguyễn Thành Phong nói.

Riêng TP.HCM trong thời gian qua đã xác lập mối quan hệ tốt đẹp với nhiều địa phương của Australia, trong đó có thể kể đến thành phố Melbourne và bang New South Wales. "Tuy nhiên, tình hình hợp tác hiện nay vẫn còn ở mức khiêm tốn so với tiềm năng của hai phía", chủ tịch UBND TP.HCM nhận định.

Trong thời gian tới, TP.HCM định hướng trở thành trung tâm kinh tế lớn của khu vực Đông Nam Á. Hai mục tiêu trước mắt là xây dựng đô thị thông minh và trở thành trung tâm tài chính của quốc gia.

TP.HCM va Australia tang cuong hop tac tren nhieu linh vuc hinh anh 1

Đại sứ Australia tại Việt Nam, bà Robyn Mudie, và Chủ tịch Nguyễn Thành Phong tại buổi tiếp xã giao ngày 5/11 tại TP.HCM. Ảnh: Hương Ly.

Chính vì vậy, TP mong muốn có thể hợp tác với phía Australia trong các lĩnh vực phát triển hạ tầng đô thị, xử lý nước thải, chế biến thực phẩm và ứng dụng công nghệ cao, ông Nguyễn Thành Phong nói.

Nhân dịp bà Mudie nhận nhiệm vụ mới, chủ tịch UBND TP.HCM bày tỏ mong muốn có thể cùng tân Đại sứ Australia thúc đẩy hơn nữa quan hệ giữa hai phía, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại.

Tại cuộc gặp chiều 5/11, bà Mudie cảm ơn sự tiếp đón nồng ấm của lãnh đạo TP.HCM và khẳng định sẽ nỗ lực thúc đẩy hợp tác giữa hai quốc gia, cũng như giữa TP.HCM với các địa phương của Australia.

"Tại cuộc gặp hồi tháng 8, hai thủ tướng đã nhất trí đặt mục tiêu tăng gấp đôi đầu tư hai chiều và trở thành một trong 10 đối tác thương mại hàng đầu của nhau. Tôi hy vọng chiến lược này sẽ tập trung vào TP.HCM cũng như các tỉnh phía nam của Việt Nam", bà Mudie nói.

Tân đại sứ cho biết ngoài hợp tác thương mại, Australia rất sẵn lòng hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực phát triển sáng kiến, sáng tạo và quản lý nguồn nước. "Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để thúc đẩy mối quan hệ phát triển hơn nữa", Đại sứ Mudie nói bằng tiếng Việt.

Bà Mudie là nhà ngoại giao cấp cao thuộc Bộ Ngoại giao Australia. Trước khi trở thành đại sứ tại Việt Nam, bà từng giữ nhiều chức vụ cấp cao khác trong phái đoàn Australia tại Liên Hợp Quốc.

Theo Zing News

Bài viết khái quát hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) giai đoạn từ 2012 – 2017, từ việc phân tích những chính sách ưu đãi trong đầu tư đối với loại hình doanh nghiệp này, tác giả đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Bàn về chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đối với doanh nghiệp FDI

Đầu tư nước ngoài đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nguồn: internet

Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI

Đầu tư nước ngoài đóng vai trò là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong GDP của cả nước tăng từ 9,3% năm 1995 lên 19,6% năm 2017. Bên cạnh đó, năng suất lao động của khu vực đầu tư nước ngoài luôn ở mức cao, đóng góp không nhỏ trong việc nâng cao năng suất lao động của nền kinh tế. Theo thống kê, tính đến hết tháng 12/2017, doanh nghiệp (DN) có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 21.456 DN.

Số liệu tổng hợp báo cáo tài chính (BCTC) của DN có vốn FDI từ năm 2011 đến năm 2017 cho thấy, quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của DN có vốn FDI luôn duy trì tăng trưởng ở mức cao. Tính riêng trong năm 2017, doanh thu của DN có vốn FDI tăng 28% so với năm 2016. Tốc độ tăng doanh thu nói trên cao hơn tốc độ tăng tài sản (22%) và tốc độ tăng của vốn đầu tư của chủ sở hữu (14%) cho thấy, hoạt động sản xuất kinh doanh của DN có vốn FDI rất thuận lợi.

DN FDI đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (năm 2017 chiếm tới 72,6%). DN FDI đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước (NSNN) qua các năm: Năm 2012, là hơn 83 nghìn tỷ đồng; năm 2013 hơn 111 nghìn tỷ đồng; năm 2014 hơn 123 nghìn tỷ đồng; năm 2015 hơn 140 nghìn tỷ đồng; năm 2016 là 161 nghìn tỷ đồng, chiếm 19% tổng thu của NSNN; năm 2017 chiếm 14,5% tổng thu của NSNN.

Tuy nhiên, tốc độ tăng về số nộp NSNN (7%) của khu vực FDI năm 2017 so với năm 2016 thấp hơn tốc độ tăng về lợi nhuận trước thuế (19,2%) và lợi nhuận sau thuế (22,6%) cho thấy, đóng góp vào NSNN của DN FDI tăng trưởng chậm hơn so với tăng trưởng của năng lực hoạt động. Điều này được lý giải một phần do DN FDI được hưởng nhiều ưu đãi về thuế thu nhập DN (TNDN) khi đầu tư lớn vào các ngành, lĩnh vực ưu đãi và đặc biệt ưu đãi đầu tư.

Đánh giá chính sách ưu đãi tài chính

Việt Nam đã liên tục hoàn thiện thể chế, chính sách ưu đãi về tài chính để thu hút và quản lý tốt hơn nguồn lực đầu tư nước ngoài. Tựu chung lại, các ưu đãi về tài chính tập trung vào 3 lĩnh vực: (i) Ưu đãi về thuế TNDN, (ii) Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu và (iii) Ưu đãi về tài chính đất đai. Cụ thể:

Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp

Từ năm 1987 đến năm 1994, Chính phủ triển khai công cuộc cải cách thuế giai đoạn 1 nhằm tạo môi trường cho mọi thành phần kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài. Giai đoạn này, đối với khu vực đầu tư nước ngoài, thuế suất phổ thông của thuế lợi tức là 25%. Ngoài ra, còn có thuế suất ưu đãi thấp hơn là 10%, 15% hoặc 20% áp dụng đối với các dự án khuyến khích đầu tư. DN hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài được miễn thuế lợi tức tối đa 4 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh, giảm 50% số thuế phải nộp tối đa trong 4 năm tiếp theo (tuỳ theo lĩnh vực ngành nghề khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn hoạt động).

Từ năm 1995-2000, Việt Nam thực hiện cải cách thuế giai đoạn 2 trong bối cảnh Việt Nam đã bắt đầu tham gia vào các hiệp định thương mại quốc tế và song phương. Năm 1999, Luật Thuế TNDN đã thay thế cho Luật Thuế lợi tức. Theo đó, pháp luật thuế TNDN cho phép áp dụng nhiều ưu đãi để khuyến khích đầu tư như: Các cơ sở sản xuất mới thành lập được miễn thuế 2 năm đầu, được giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Nếu đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế được ưu đãi đầu tư sẽ hưởng mức thuế suất thấp hơn các dự án khác. Thời gian miễn giảm cao nhất là 13 năm (4 năm miễn, 9 năm giảm)...

Giai đoạn 2001 - 2010, nền kinh tế Việt Nam có những bước phát triển nhất định sau nhiều năm thu hút vốn FDI và áp dụng Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết quốc tế đa phương và song phương dẫn đến sự cắt giảm đáng kể nguồn thu từ thuế nhập khẩu, Việt Nam đã tiến hành cải cách thuế giai đoạn 3 với ba mục tiêu sau: đơn giản, công bằng, hiệu quả.

Để khuyến khích đầu tư trên cơ sở vẫn đảm bảo nguồn thu, Nhà nước đã giảm gánh nặng thuế qua việc giảm thuế suất, đơn giản hóa hệ thống thuế, mở rộng đối tượng chịu thuế, bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài từ năm 2003. Thời kỳ này, chính sách thuế đã góp phần hướng tới xóa bỏ sự phân biệt, đối xử giữa các thành phần kinh tế, giữa DN trong nước với DN FDI.

Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ thực hiện cải cách thuế giai đoạn 4. Trong giai đoạn này, bối cảnh kinh tế của đất nước có nhiều thay đổi. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới năm 2008, cộng với sự tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn và lao động chất lượng thấp, giá rẻ đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chậm lại. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo tính bền vững.

Bên cạnh việc giảm mức thuế suất phổ thông qua các lần sửa Luật Thuế TNDN (giai đoạn 2004-2008 là 28%, giai đoạn 2009-2013 là 25%, giai đoạn 2014-2015 là 22% và từ ngày 1/1/2016 đến nay là 20%), việc quy định ưu đãi thuế TNDN ở mức cao đối với một số lĩnh vực mũi nhọn cần khuyến khích đầu tư đã góp phần thu hút đầu tư, khuyến khích kinh doanh, tạo thuận lợi cho DN tăng tích lũy, tăng đầu tư vào nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng.

Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu

Từ năm 1991, chính sách thuế nhập khẩu đã cho phép miễn thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa tạo tài sản cố định của các DN FDI, nguyên liệu nhập khẩu để gia công cho phía nước ngoài. Giai đoạn 1995-2000, Chính phủ tiếp tục cải cách thuế xuất nhập khẩu theo nguyên tắc ưu tiên khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất (hầu hết thuế nhập khẩu là 0%) hơn là hàng tiêu dùng; ưu tiên khuyến khích xuất khẩu hàng hóa đã qua chế biến (thuế suất 0%) hơn là đối với hàng hoá ở dạng nguyên liệu thô. Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức tham gia vào Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT).

Bàn về chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đối với doanh nghiệp FDI - Ảnh 1

Từ năm 2001 đến nay, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế. Tính đến tháng 9/2019, Việt Nam đã tham gia đàm phán và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do. Nhằm đáp ứng các yêu cầu cam kết hội nhập, đồng thời hoàn thiện các chính sách ưu đãi xuất khẩu và thu hút FDI, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tiếp tục được cập nhật, sửa đổi trong các năm 2001, 2005 và 2016 như: Bổ sung thêm DN công nghệ cao, DN khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 05 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất...

Ưu đãi về tài chính đất đai

Sự ra đời của Luật Đất đai năm 1993 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong chính sách tài chính đất đai bằng hàng loạt các quy định mang tính tiến bộ, từng bước phù hợp với cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, đã có các quy định về ưu đãi miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết hợp lý lợi ích giữa Nhà nước với người sử dụng đất.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, để hỗ trợ DN, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ, cụ thể như: (i) Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn từ năm 2011-2014; (ii) Điều chỉnh giảm mức tỷ lệ (%) tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và UBND cấp tỉnh quy định cụ thể mức tỷ lệ (%) trong khung từ 0,5% đến 3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương; (iii) Quy định áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong xác định giá đất tính thu tiền thuê đất đối với thửa đất hoặc khu đất mà giá trị của diện tích tính thu tiền thuê đất tính theo giá đất trong Bảng giá đất dưới 30 tỷ đồng đối với các thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỷ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỷ đồng đối với tỉnh còn lại.

Để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 3/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với nhiều ưu đãi.

Những tác động của các chính sách ưu đãi tài chính đến thu hút doanh nghiệp FDI

Những tác động tích cực

- Chính sách ưu đãi thuế đã góp phần nhất định vào việc động viên, thu hút các nguồn lực đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, thúc đẩy xuất khẩu và bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng.

- Các chính sách ưu đãi thuế đảm bảo mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển, phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia hoặc đang trong quá trình đàm phán.

- Tạo ra môi trường minh bạch, thuận lợi thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích các DN mới được thành lập hoặc đầu tư thêm vốn, mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất.

- Tạo ra sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu và tỷ trọng giữa các ngành, vùng, miền.

- Thông qua chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế TNDN đã có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, qua đó đảm bảo nguồn thu cho NSNN.

Bàn về chính sách ưu đãi đầu tư của Việt Nam đối với doanh nghiệp FDI - Ảnh 2

- Kể từ ngày 01/01/2004, khi Luật Thuế TNDN số 09/2003/QH11 có hiệu lực thi hành đã thống nhất chính sách ưu đãi thuế (cả về điều kiện ưu đãi và mức ưu đãi) đối với mọi loại hình DN không có sự phân biệt giữa DN trong nước và DN FDI, qua đó tạo môi trường pháp lý bình đẳng trong sản xuất kinh doanh để cùng cạnh tranh và phát triển giữa DN trong nước và DN FDI.

- Theo đánh giá từ các địa phương cho thấy, các chính sách ưu đãi đất đai hiện hành về cơ bản là phù hợp, đồng bộ các quy định của pháp luật về quản lý thuế, đất đai và đầu tư. Các quy định về ưu đãi đất đai góp phần thực hiện chính sách của Nhà nước đối với các đối tượng cần được ưu đãi, hỗ trợ và các lĩnh vực cần được khuyến khích đầu tư. Đồng thời, chính sách ưu đãi đất đai đã và đang phát huy vai trò như là một công cụ nhằm thu hút đầu tư vào các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư; từ đó, có tác động tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống của người dân tại các vùng khó khăn, vùng biên giới, hải đảo.

Một số hạn chế, tồn tại

Bên cạnh những tác động tích cực trên chính sách ưu đãi tài chính cũng bộc lộ một số hạn chế, tồn tại sau:

-  Mặc dù, chính sách ưu đãi thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, tuy nhiên khu vực kinh tế có vốn FDI đang được hưởng nhiều hơn từ chính sách ưu đãi:

+ Tỷ trọng về số thuế TNDN được ưu đãi miễn, giảm của DN có vốn FDI trên tổng số thuế TNDN được miễn giảm của DN cả nước là 76%.

+ Tỷ lệ về số thuế TNDN được ưu đãi miễn, giảm của DN có vốn FDI trên tổng số thuế TNDN phải nộp tính theo thuế suất phổ thông là 48%, trong khi tỷ lệ này của DNNN là 4,6%, DN ngoài quốc doanh là 14%.

 -  Việc lồng ghép chính sách xã hội vào chính sách ưu đãi thuế TNDN làm cho chính sách thuế thêm phức tạp, khó quản lý, dễ tạo sơ hở để DN lợi dụng giảm thuế phải nộp, gây nên tình trạng bất công bằng trong động viên thuế giữa các đối tượng.

-  Chính sách ưu đãi không ổn định nên DN không dự tính trước được hiệu quả kinh doanh trong trung và dài hạn cũng là nguyên nhân hạn chế việc thu hút đầu tư trong và ngoài nước thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Định hướng nâng cao hiệu quả thu hút và quản lý FDI

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút FDI, thời gian tới cần triển khai các nội dung sau:

Quan điểm về xây dựng chính sách ưu đãi

Cần có các nghiên cứu để xây dựng hệ thống chính sách pháp luật minh bạch, đơn giản, tránh chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản luật gây khó khăn cho nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Quan điểm về thu hút FDI cần thay đổi theo hướng ưu đãi thuế không phải là yếu tố quyết định. Để đảm bảo được tính hiệu quả của các chính sách ưu đãi thuế thì các yêu cầu về đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự ổn định và minh bạch của thể chế có ý nghĩa rất quan trọng.

Về chính sách ưu đãi thuế

Cần bám sát mục tiêu, giải pháp nhằm cơ cấu lại NSNN, quản lý nợ công theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội. Theo đó, cải cách ưu đãi thuế nhằm tạo sự chuyển biến trong phân bổ nguồn lực, khuyến khích và thu hút đầu tư có chọn lọc để phát triển các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Khuyến khích ưu đãi thuế vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn; Thống nhất toàn bộ ngành, lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế được quy định tại các luật Thuế, không thực hiện theo các luật chuyên ngành.

Chính sách ưu đãi tài chính khác

Rà soát, hoàn thiện chính sách ưu đãi về đất đai để đảm bảo tính đồng bộ giữa pháp luật đất đai, pháp luật về đầu tư và các chính sách khác của Nhà nước; Xác định rõ đối tượng được hưởng ưu đãi về đất đai để ưu đãi của Nhà nước đến được trực tiếp với người được thụ hưởng. Việc ưu đãi phải thực chất và chỉ nên thực hiện đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường, đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách.

Chính sách quản lý hoạt động FD

- Cần xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về đầu tư đồng bộ, thông suốt về DN có vốn FDI để các cơ quan trung ương, địa phương tổng hợp, đánh giá, giám sát hiệu quả, kịp thời.

- Cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm soát để hạn chế các DN có vốn FDI lỗ lũy kế, lỗ mất vốn nhưng vẫn tiếp tục đầu tư mở rộng để được hưởng ưu đãi thuế.

-  Các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cần tăng cường năng lực giám sát tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN FDI; công khai, minh bạch thông tin về hoạt động và tình hình tài chính của các DN FDI, để sớm phát hiện và phòng ngừa các nguy cơ gây bất ổn kinh tế - xã hội.    

Theo Tạp Chí Tài Chính 

Thành phố Hà Nội cho rằng, việc xây dựng bảng giá đất đáp ứng yêu cầu thực tiễn, giảm bớt chênh lệch giữa bảng giá với thị trường...

Giá đất năm tới của Hà Nội có thể tăng đến 30%

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Theo tờ trình của UBND thành phố Hà Nội, bảng giá đất áp dụng cho năm 2020 tới đây sẽ tăng bình quân khoảng 15% áp dụng cho giá các loại đất như đất ở đô thị; đất thương mại, dịch vụ tại đô thị. Có một số khu vực, dự kiến giá đất sẽ tăng tới 30%.

Theo UBND thành phố, đối với đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp không phải là đất thương mại, dịch vụ tại đô thị có khả năng sinh lời cao, có lợi thế trong việc sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ thì căn cứ vào thực tế của từng địa phương. Nếu được thông qua, bảng giá đất sẽ được áp dụng từ 2020 – 2024.

UBND thành phố cho rằng, việc xây dựng Bảng giá đất góp phần thiết lập cơ chế chính sách đồng bộ trong quản lý đất đai, gắn mối quan hệ giá đất với việc thu hút đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Hà Nội. Đặc biệt, việc này sẽ đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người bị thu hồi đất, giảm tình trạng đầu cơ về đất, tăng thu ngân sách nhà nước.

Tại hội nghị phản biện xã hội về dự thảo giá đất ngày 7/11, ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý, chuyên gia đều đánh giá cao sự cần thiết ban hành giá đất mới theo quy định

Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Dân chủ - Pháp luật Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội Phạm Ngọc Thảo cho rằng, Hà Nội cần kiến nghị với Chính phủ để được xây dựng cơ chế đặc thù vì giá đất của Hà Nội cao hơn giá đất của tất cả các thành phố lớn trên cả nước.

Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giá đất của thành phố giai đoạn 2020 – 2024, nhất là khu vực nông nghiệp có những khu vực thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Vì vậy giá đất cần phải được điều chỉnh cho thỏa đáng để người dân không bị thiệt thòi.

Nhấn mạnh đất đai là vấn đề phức tạp nhất trong những vấn đề phức tạp của xã hội, PGS.TS Bùi Thị An - nguyên đại biểu Quốc hội cho rằng, trong quá trình xây dựng bảng giá đất phải đánh giá tác động xã hội, trong đó đánh giá kỹ ảnh hưởng đến Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.

Theo dự thảo tờ trình của UBND thành phố Hà Nội, giá đất ở đô thị dự kiến cao nhất hơn 200 triệu đồng/m2 áp dụng cho một số địa bàn thuộc quận Hoàn Kiếm như phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Lê Thái Tổ (giá áp dụng từ 1/1/2015 đến 31/12/2019 là 162 triệu đồng/m2). Giá thấp nhất thuộc địa bàn quận Hà Đông với hơn 4,5 triệu đồng/m2.

Để xây dựng khung giá đất, liên ngành thành phố đã tổ chức khảo sát, lấy ý kiến người dân và chính quyền địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy, giá chuyển nhượng thực tế trên thị trường với đất ở tại các quận phổ biến từ 10 triệu đến 500 triệu đồng/m2.

Một số khu vực tại quận Hoàn Kiếm có giá chuyển nhượng cao đột biến như phố Hàng Bông, Hàng Bạc với mức trên 800 triệu đồng/m2; phố Lý Thường Kiệt có giá chuyển nhượng hơn 900 triệu đồng/m2.

Thành phố Hà Nội cho rằng, việc xây dựng bảng giá đất đáp ứng yêu cầu thực tiễn, giảm bớt chênh lệch giữa bảng giá với thị trường; góp phần thiết lập cơ chế chính sách đồng bộ trong quản lý đất đai; hài hoà lợi ích nhà nước, người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức giá khảo sát thực tế thành phố đưa ra vẫn thấp hơn nhiều với giá các đơn vị bất động sản công bố trước đó.

Theo quy định hiện hành, bảng giá các loại đất được xác định làm căn cứ trong các trường hợp sau: Tính tiền sử dụng đất; tính thuế sử dụng đất; tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất; tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; tính tiền bồi thường cho nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai; tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất...

Theo Cafef

TheLEADERNgày 6/11, Hyundai Oilbank tuyên bố rằng công ty đã đặt một cơ sở lưu trữ sản phẩm dầu mỏ 200.000 thùng tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để mở rộng xuất khẩu sang các nước trong khu vực Đông Nam Á.

Đây là lần đầu tiên một công ty lọc dầu của Hàn Quốc xây dựng một cơ sở lưu trữ sản phẩm dầu mỏ tại Việt Nam, theo tờ BusinessKorea.

Công ty lọc dầu Hàn Quốc đặt kho chứa ở Việt Nam

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Hyundai Oilbank cho biết cơ sở tại Bà Rịa - Vũng Tàu sẽ đóng vai trò là trung tâm xuất khẩu cho Đông Nam Á. Các kế hoạch của công ty nhằm tăng xuất khẩu và cải thiện cơ cấu lợi nhuận thông qua các giao dịch trực tiếp với các công ty quốc doanh, các nhà phân phối tư nhân, và các kênh bán hàng trực tiếp tại Việt Nam.

Bà Rịa- Vũng Tàu được đánh giá là nơi tốt nhất cho cơ sở xuất khẩu sản phẩm dầu mỏ vì tàu chở dầu lớn có thể dễ dàng đi cùng với các thiết bị đầu cuối.

Thị trường sản phẩm xăng dầu Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ hàng năm trên 5%. Đặc biệt, Việt Nam không có đủ cơ sở tinh chế, do đó, mới chỉ đáp ứng 30% tổng nhu cầu với hàng nhập khẩu từ các quốc gia khác như Singapore, Malaysia và Thái Lan. Tỷ lệ sản phẩm của Hàn Quốc đã tăng lên kể từ khi ký hiệp định FTA 2015 giữa Hàn Quốc và Việt Nam.

Hyundai Oilbank còn kế hoạch thâm nhập vào Campuchia và Lào dựa trên lợi thế địa lý của cơ sở lưu trữ tại Việt Nam. Các quốc gia này đang thiếu các cơ sở lọc dầu và không có các hạ tầng cảng biển lớn, vì vậy họ chủ yếu nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ thông qua Bà Rịa - Vũng Tàu.

"Năm tới, chúng tôi sẽ tăng gấp đôi sản lượng xuất khẩu từ mức khoảng 3 triệu thùng một năm ở thời điểm hiện tại", một lãnh đạo của Hyundai Oilbank nói với BusinessKorea. "Từ năm 2021, chúng tôi cũng sẽ xuất khẩu các sản phẩm hóa dầu và dầu nhờn".

Theo TheLeader

 

Các thách thức vẫn đang tồn tại trên thị trường bất động sản, tuy nhiên, bên cạnh đó đang có những tín hiệu lạc quan từ việc tăng trưởng kinh tế tích cực, sự gia tăng của tầng lớp giàu có, nhu cầu sở hữu căn nhà thứ hai.

Bất động sản Việt Nam đang nhìn thấy những tín hiệu lạc quan hơn

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Các chuyên gia đều cho rằng đang có những chuyển biến tích cực từ phía thị trường và cả các nhà làm chính sách. Theo đó, các vấn đề về cấp phép dự án sẽ sớm được giải quyết, nhờ sự phối hợp giữa các nhà phát triển BĐS trong nước và chính quyền địa phương và trung ương.

“Nhìn vào hiệu quả của các nhà phát triển BĐS trên thị trường chứng khoán cũng như những yếu tố hỗ trợ cho hệ sinh thái BĐS, chúng tôi không lo ngại nhiều về hiệu quả thị trường nói chung” ông Neil Macgregor, tổng giám đốc Savills Việt Nam khẳng định tại Hội nghị BĐS 2019 do Forbes Việt Nam tổ chức sáng 7/11 ở TPHCM.

Theo đó, BĐS Việt Nam hiện đang nhìn thấy nhiều tín hiệu lạc quan, thể hiện ở mức tăng trưởng kinh tế tích cực, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu và giàu có, nhu cầu sở hữu căn nhà thứ hai đang nở rộ, quy mô thị trường đang thực sự được mở rộng… Dẫu vậy hiện tại hầu hết các yêu tố tích cực này đều “khựng” lại trước nút thắt pháp lý khiến thị trường mất điểm cân bằng từ đầu năm.

Tiếp cận quỹ đất và xin cấp phép dự án cũng là thách thức lớn của các nhà đầu tư nước ngoài, theo ông Ivor Cosimo Jencks - Tổng giám đốc phụ trách phát triển kinh doanh bất động sản thương mại khu vực Nam Á của HongKong Land. Tuy nhiên, ông cho rằng trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng tích cực "mang tính hiện tượng" của Việt Nam những năm gần đây, cũng như sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp giàu có trung lưu, khiến phân khúc căn hộ cao cấp vẫn được quan tâm nhiều.

"Các nhà phát triển bất động sản quốc tế vẫn nhìn thấy sự phát triển lạc quan ở phân khúc này dù luật chơi đang thay đổi, các vấn đề pháp lý trở nên nghiêm ngặt hơn, các dự án được phê duyệt chậm hơn," ông Ivor nói và cho biết HongKong Land vẫn không có kế hoạch phát triển ra ngoài "thị trường truyền thống" của mình là ở khu vực trung tâm TPHCM.

Trong khi đó, Tiến sĩ Lê Anh Tuấn, phó tổng giám đốc quỹ Dragon Capital thì nhấn mạnh rằng dù chứng kiến nhiều điểm sáng - tối đan xen, tuy nhiên nhà đầu tư vẫn tin rằng trong dài hạn, mọi người đều có thể lạc quan về thị trường bất động sản Việt Nam.

Bốn yếu tố được chuyên gia này đánh giá là trụ cột cho sự phát triển bền vững của thị trường địa ốc trong dài hạn gồm: Sự tăng trưởng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu Việt Nam; Kinh tế vĩ mô Việt Nam tiếp tục ổn định; Cơ sở hạ tầng Việt Nam được cải thiện và liên tục đầu tư mới; Tỷ lệ đô thị hóa gia tăng nhanh chóng từ thành tích phát triển của nền kinh tế.

Vị chuyên gia này lý giải, ở yếu tố thứ nhất, tầng lớp trung lưu Việt Nam trong một thập kỷ qua gia tăng nhanh chóng. Trích dẫn báo cáo từ Consultant Group - tổ chức tư vấn ước tính tầng lớp trung lưu Việt Nam đã tăng khoảng 175% trong 8 năm qua. Sự gia tăng của tầng lớp trung lưu tạo ra nhu cầu dài hạn với thị trường địa ốc.

Yếu tố thứ hai là sự ổn định về kinh tế vĩ mô, với việc tỷ giá, lạm phát và lãi suất được kiểm soát ổn định trong ba năm qua, kinh tế Việt Nam được coi là một điểm sáng trong khu vực. Kinh tế vĩ mô ổn định trở thành nền tảng để giữ thị trường bất động sản phát triển bền vững.

Về cơ sở hạ tầng, ông Tuấn cho rằng với tốc độ phát triển kinh tế, nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam vẫn đang tăng. Thực tế, một minh chứng, tại TPHCM, dự án Metro với các dự án bất động sản bám dọc tuyến tàu điện này cho thấy cú huých của hạ tầng giao thông với sự phát triển của các dự án địa ốc.

Cuối cùng, tỷ lệ đô thị hóa tại Việt Nam hiện cao thứ hai tại châu Á giúp thị trường địa ốc phát triển bền vững trong dài hạn.

Trong dự báo ngắn hạn, chuyên gia này đánh giá, bất động sản cao cấp, sức nóng có thể giảm dần trong tương lai. Hiện tại, gần như các dự án hiện có trên thị trường đều được bán hết. Tuy nhiên, mức giá giữa hai thị trường bất động sản sơ cấp và thứ cấp đang có chênh lệch lớn, ở mức 20-30%.

Đối với phân khúc tầm trung, tăng trưởng và ổn định sẽ là xu thế trong dài hạn. Lý do, mức thu nhập bình quân đầu người tăng, và số lượng tầng lớp trung lưu tăng nhanh đột biến sẽ tạo ra sức cầu dồi dào. Trong đó, vấn đề nằm ở khía cạnh các nhà phát triển dự án liệu có đủ nguồn cung đưa ra đáp ứng nhu cầu thị trường. Một góc khác, chất lượng của các sản phẩm ở phân khúc trung - cao cấp ngày càng được cải thiện, kết hợp với nhiều giải pháp tái cấu trúc tài chính hợp lý cho người mua tạo ra sự lạc quan cho thị trường.

Ông Lê Anh Tuấn cũng nhận xét các doanh nghiệp bất động sản có thể đã gặp khó khăn khi huy động vốn trong khoảng 2-3 năm qua khi tín dụng bất động sản bị siết chặt. Nhưng giai đoạn khó khăn nhất có thể đã qua, và tới thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp địa ốc có thể huy động vốn qua kênh trái phiếu với chi phí vốn hợp lý.

Còn theo dự báo của CBRE Việt Nam, trong năm 2020, sẽ có 4 xu hướng dẫn dắt thị trường căn hộ, bao gồm các đô thị ở các vùng ngoại vi thành phố sẽ là nơi tạo nguồn cung chính; khả năng hấp thụ thị trường vẫn tốt hơn trong bối cảnh giá bán ổn định. Các nhà phát triển bất động sản sẽ chú trọng đa dạng sản phẩm mới nhưng tập trung vào sự tiện lợi của cư dân và tối đa hóa diện tích sử dụng. Một yếu tố quan trọng nữa sẽ thúc đẩy giá căn hộ tiếp tục tăng trong tương lai đến từ việc kết nối hạ tầng liên tỉnh, bao gồm các tỉnh lân cận TPHCM như Đồng Nai, Bình Dương, Long An

Theo CRBE, với việc thiếu hụt nguồn cung, các chủ đầu tư sẽ tìm kiếm các dự án mới tại khu vực ngoại ô và các khu vực lân cận TPHCM. Theo đó, kỳ vọng năm 2020 nguồn cung sẽ phục hồi, nhiều dự án được khơi thông và đưa ra thị trường trong năm 2020-2021.

Giá bán căn hộ tại TPHCM được CBRE dự báo sẽ tăng trung bình 5-10%/năm, đặc biệt ở phân khúc hạng sang, trong khi Hà Nội giá bán kỳ vọng tiếp tục tăng dao động nhẹ 3-4%/năm. Các chủ đầu tư sẽ đưa ra nhiều sản phẩm mới theo hướng tập trung vào tiện ích của người dân và tối đa hóa diện tích sử dụng. Dù nguồn cung khó khăn nhưng nhu cầu lớn sẽ vẫn giữ đà tăng tiêu thụ và giá bán cho thị trường ở cả hai khu vực.

 Theo Cafef

 

Our Strategic Partners