Bốn cách giúp TP.HCM trở thành một trung tâm tài chính

Written by  - Tuesday, 19 November 2019

TTO - TP.HCM phải trở thành một trung tâm tài chính quốc gia, sau đó mới bước ra toàn cầu. Trong quá trình này, những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.

Bốn cách giúp TP.HCM trở thành một trung tâm tài chính - Ảnh 1.

TP.HCM cần được đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo nhiều hơn nữa để trở thành trung tâm tài chính khu vực - Ảnh: N.BÌNH

TP.HCM có tiềm năng theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và các thành phố khác thành các trung tâm nổi trội về tài chính toàn cầu.

Muốn vậy, trước hết TP.HCM phải trở thành một trung tâm tài chính quốc gia, sau đó mới bước ra toàn cầu. Đi cùng quá trình này là sự đòi hỏi đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo, nhưng những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.

Hiện nay Việt Nam có nhu cầu đầu tư khổng lồ, chỉ riêng về cơ sở hạ tầng, nhu cầu đầu tư hàng năm ước tính cần khoảng 18 tỉ đến 20 tỉ USD. Nếu TP.HCM có thể trở thành một đơn vị kêu gọi vốn hiệu quả thì sẽ trở thành trung tâm thu hút vốn không chỉ từ các nguồn trong nước mà còn nguồn vốn nước ngoài. Điều này sẽ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thực của Việt Nam, tăng cường các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để chuyển đổi từ một trung tâm tài chính quốc gia thành một trung tâm tài chính quốc tế.

Để trở thành một trung tâm tài chính quốc gia và tiến một bước nữa là trung tâm tài chính quốc tế, TP.HCM cần có đầu tư cho cơ sở hạ tầng vật chất cũng như giáo dục và đào tạo, nhưng những cải cách chính sách vẫn là điều kiện thiết yếu.

Dù phát triển trong cách thức nào, các trung tâm tài chính toàn cầu trên khắp thế giới có một số đặc điểm chung như sau.

Thứ nhất, khung pháp lý toàn diện. Các nhà đầu tư quốc tế cần luật pháp rõ ràng với việc thực thi có thể dự đoán được. Hiện tại, Việt Nam có một số luật quan trọng cần được tăng cường hoặc ban hành, bao gồm Luật chứng khoán, Luật các tổ chức tín dụng và luật về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư để thu hút thêm đầu tư vào chứng khoán, ngân hàng và cơ sở hạ tầng trong nước.

Thứ hai, cơ sở hạ tầng thị trường vững chắc. Các nhà đầu tư bị hấp dẫn bởi những thị trường nơi họ có thể hoàn tất giao dịch một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí. Việt Nam đang tụt hậu trong một số lĩnh vực quan trọng. Các phương thức quyết toán tổng tức thời theo thời gian thực (real time gross settlement) và giao và thanh toán (delivery-versus-payment) chưa phát triển.

Cơ chế bù trừ ròng chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và buộc các ngân hàng nước ngoài phải nắm giữ thêm vốn dự phòng rủi ro ở Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam không có lãi suất tiêu chuẩn ngắn hạn theo thị trường, vốn là nền tảng cho rất nhiều thành tố khác của thị trường vốn hiện đại.

Thứ ba, chính sách tiền tệ độc lập. Nhà đầu tư muốn có khả năng dự đoán đối với chính sách. Hàm ý ở đây là các quyết sách tiền tệ phải được đưa ra với mức độ độc lập nhất định.  Điều này bao gồm tính linh hoạt của tỉ giá hối đoái, sự ổn định của lãi suất liên ngân hàng, và xác định tỉ lệ lạm phát.

Và cuối cùng là cần có các cơ chế mạnh mẽ để chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Bản thân Việt Nam đã cam kết thực thi các khuyến nghị của Lực lượng Đặc nhiệm hành động tài chính về chống rửa tiền và chống tài trợ cho khủng bố. Đây là những yếu tố then chốt để bảo đảm rằng các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài có thể giao dịch an toàn tại thị trường trong nước.

Dự báo đến năm 2050, VN sẽ nằm trong số 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nếu TP.HCM có thể phối hợp với chính quyền trung ương thực hiện những cải cách tài chính quan trọng trên thì cơ hội cho TP.HCM đi theo mô hình của Tokyo, Thượng Hải, Mumbai và những nơi khác sẽ rất lớn. 

Các thành phố này đã trở thành các trung tâm tài chính toàn cầu bằng cách trước hết tài trợ cho sự phát triển của nền kinh tế trong nước.

Theo Tuổi Trẻ Online

Strategic Partnership