TIN TỨC

Nguyễn Ngọc Thảo

Nguyễn Ngọc Thảo

Đáng ngại hơn cả, theo nhiều chuyên gia là tình trạng các DN FDI làm ăn thua lỗ, nợ lương công nhân, nợ tiền bảo hiểm, nợ thuế rồi bỏ trốn như nhiều trường hợp từng xảy ra.

Dòng vốn FDI từ Trung Quốc bất ngờ tăng đột biến trong năm 2019, mang lại nhiều tín hiệu tích cực, tuy nhiên cũng tiềm ẩn không ít rủi ro khi đa phần là các dự án nhỏ, công nghệ thấp và có cả tình trạng chủ doanh nghiệp bỏ trốn.

Cẩn trọng với dòng FDI đột biến từ Trung Quốc

Công nhân Công ty TNHH KaiYang (Hải Phòng) vạ vật chờ đòi lương, trong khi chủ doanh nghiệp bỏ về nước

Dự án nhỏ, rủi ro lớn

“Nguyên nhân dòng vốn FDI từ Trung Quốc vươn lên dẫn đầu tại VN do làn sóng dịch chuyển của các DN để tránh thiệt hại từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Vấn đề của VN là cần phải sàng lọc kỹ, tránh công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường.    

PGS-TS Trần Đình Thiên”

Sau một thời gian dài tăng trưởng khá ấn tượng, từ tháng 1 - 7 thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào VN bắt đầu giảm. Theo Tổng cục Thống kê, tháng 7 cả nước thu hút 2.064 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt gần 8,3 tỉ USD. Đáng chú ý, số dự án tăng 24,6%, nhưng vốn đăng ký lại giảm 37,4% so với cùng kỳ năm 2018. Bên cạnh đó, có 791 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt khoảng 3,42 tỉ USD, giảm 30,8% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 7 tháng, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm đạt gần 11,7 tỉ USD, giảm 35,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Trong số 65 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại VN trong 7 tháng, Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 1,78 tỉ USD, chiếm 21,6% tổng vốn đăng ký cấp mới. Tiếp đến là Hàn Quốc 1,47 tỉ USD, chiếm 17,8%; Nhật Bản 1,12 tỉ USD, chiếm 13,6%; Hồng Kông (Trung Quốc) 991,6 triệu USD, chiếm 12%...

Trả lời Thanh Niên, PGS-TS Trần Đình Thiên, Thành viên Tổ tư vấn của Thủ tướng, nhận định dòng vốn FDI đăng ký giảm, nhưng số dự án lại tăng lên, đặc biệt từ Trung Quốc là vấn đề hết sức đáng chú ý và cần theo dõi kỹ. “Số dự án tăng lên, nhưng số vốn giảm hàm chứa nhiều vấn đề rủi ro hơn vì thu hút FDI thường những dự án quy mô lớn mới mang lại nhiều giá trị. Còn các dự án nhỏ, vụn vặt sẽ rất khó thay đổi công nghệ, tăng năng suất, thậm chí gây ô nhiễm môi trường”, ông Thiên phân tích.

Ông Nguyễn Việt Phong, Vụ trưởng Vụ Thống kê xây dựng và vốn đầu tư (Tổng cục Thống kê), cũng thừa nhận VN đang đối mặt với một số thách thức lớn trong việc thu hút dòng vốn từ hai nhà đầu tư Trung Quốc, Hồng Kông. Trong đó, dòng vốn FDI từ Trung Quốc có thể khiến VN trở thành “cứ điểm” hàng hóa của các doanh nghiệp (DN) Trung Quốc nhập khẩu hàng hóa vào VN, rồi xuất khẩu sang Mỹ và các nước châu Âu. Điều này có thể vô tình làm VN vi phạm các cam kết về xuất xứ hàng hóa, nếu không cẩn thận có thể bị chống bán phá giá hoặc trợ giá. Bên cạnh đó, làn sóng đầu tư từ Trung Quốc cũng sẽ tạo nên áp lực đối với các DN trong nước.

Chủ doanh nghiệp bỏ trốn

Đáng ngại hơn cả, theo nhiều chuyên gia là tình trạng các DN FDI làm ăn thua lỗ, nợ lương công nhânnợ tiền bảo hiểm, nợ thuế rồi bỏ trốn như nhiều trường hợp từng xảy ra.

Mới đây, ngày 12.8, toàn bộ công nhân của Công ty TNHH KaiYang (Q.Kiến An, TP.Hải Phòng) khi đến để làm việc thì bất ngờ phát hiện công ty đã bị niêm phong tài sản, lãnh đạo công ty đã rời khỏi địa phương nhưng chưa thanh toán tiền lương tháng 7. Công ty này là DN 100% vốn đầu tư của Đài Loan, do ông Huang Shang Che làm tổng giám đốc, chuyên sản xuất các loại giày da xuất khẩu, có khoảng 2.200 công nhân cùng gần 200 nhân viên văn phòng. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng xác định, công ty này đang nợ tiền bảo hiểm, tiền lương tháng 7.2019, của toàn bộ công nhân và nhân viên văn phòng, ngoài ra còn nợ tiền công đoàn và một số ngân hàng, đối tác làm ăn.

Trước đó, hàng trăm công nhân của Công ty TNHH TBO Vina (100% vốn Đài Loan; Khu công nghiệp Hòa Khánh, Q.Liên Chiểu, Đà Nẵng) đã tập trung để đòi lương do ông chủ công ty bỏ về nước, công ty ngừng hoạt động.

PGS-TS Ngô Trí Long, chuyên gia về tài chính, nhận xét trước kia chủ DN mất tích, bỏ trốn tập trung ở các DN 100% vốn của Hàn Quốc, đặc biệt ở lĩnh vực dệt may, da giày. Nhưng gần đây đã xuất hiện nhiều dự án của các “ông chủ” Trung Quốc thành lập vốn thông qua Đài Loan, Hồng Kông rót vào VN. Đa phần là các dự án nhỏ tập trung lĩnh vực khai khoáng, dệt may, hóa chất… những lĩnh vực ít mang lại giá trị gia tăng cao, lại dễ gây ô nhiễm môi trường, công nghệ lạc hậu.

“Cần có sự chọn lựa dòng vốn FDI từ Trung Quốc, cũng như các quốc gia khác. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng bổ sung các quy định pháp lý, các chế tài để ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng chủ DN bỏ trốn. Phải hoãn, cấm xuất cảnh đối với chủ DN có dấu hiệu bỏ trốn, chủ DN nợ thuế, các phúc lợi xã hội với người lao động”, ông Long đề xuất.

Theo Báo Thanh Niên Online

 

Việt Nam nhiều tiềm năng sẽ trở thành công xưởng sản xuất smartphone của thế giới.

Theo báo cáo mới nhất của Nikkei, Google đã bắt đầu chuyển dây chuyền sản xuất smartphone Pixel của mình từ Trung Quốc sang Việt Nam, đồng thời tìm kiếm và xây dựng chuỗi cung ứng giá rẻ tại Đông Nam Á. Đây được cho là bàn đạp để Google thực hiện tham vọng phát triển mảng kinh doanh thiết bị phần cứng.

Nikkei cho biết, Google đã làm việc với một đối tác để chuyển đổi một nhà máy Nokia cũ ở tỉnh Bắc Ninh, để bắt đầu sản xuất những chiếc smartphone Pixel. Đây cũng là tỉnh phía Bắc mà Samsung đã phát triển chuỗi cung ứng và sản xuất smartphone của mình.

Google chuyển dây chuyền sản xuất smartphone Pixel từ Trung Quốc sang Việt Nam - Ảnh 1.

Google sẽ chuyển dây chuyền sản xuất smartphone Pixel từ Trung Quốc sang Việt Nam,

nhằm tránh ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại và hàng rào thuế quan.

Việc chuyển đổi dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam, cho thấy Google cũng lo ngại vấn đề chiến tranh thương mại và hàng rào thuế quan giữa Mỹ - Trung Quốc. Theo báo cáo, Google có kế hoạch sẽ chuyển toàn bộ dây chuyền sản xuất phần cứng dành cho thị trường Mỹ ra khỏi Trung Quốc, bao gồm cả smartphone Pixel và loa thông minh Google Home.

Google thực sự có tham vọng phát triển mảng phần cứng, khi đặt mục tiêu xuất xưởng 8 - 10 triệu chiếc smartphone trong năm nay, gấp đôi so với năm ngoái. Mặc dù trên bản đồ smartphone thế giới, Google hiện chỉ chiếm một phần nhỏ, thậm chí không được xếp hạng trong top 10, nhưng lại có tốc độ phát triển rất nhanh chóng.

Sau khi ra mắt những chiếc smartphone Pixel giá rẻ hồi tháng 4, Google đã trở thành nhà sản xuất smartphone lớn thứ 5 tại Mỹ trong Q2/2019, giành lấy được thị phần trong khi toàn bộ ngành công nghiệp này đang suy thoái. Trong năm 2018, số lượng smartphone Pixel bán ra tại Mỹ chiếm tới 70% tổng doanh số smartphone Pixel trên toàn cầu của Google.

Do đó có thể thấy tầm quan trọng của thị trường Mỹ, và việc chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc để tránh sự ảnh hưởng của hàng rào thuế quan giữa hai nước. Theo kế hoạch hiện tại, Google sẽ chuyển dây chuyền sản xuất smartphone Pixel 3A sang Việt Nam trước cuối năm nay.

Các nhà phân tích cho biết mảng kinh doanh smartphone của Google vẫn còn khá nhỏ, do đó việc chuyển dây chuyền sản xuất ra khỏi Trung Quốc là không quá khó khăn. Google vẫn chưa có phản hồi chính thức sau báo cáo của Nikkei. 

Theo GenK

(TBTCO) - Doanh nghiệp (DN) cần nhìn rõ 3 yếu tố chính thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay, gồm: chiến tranh thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, CPTPP và các FTA, kỹ thuật số và thương mại điện tử, đồng thời nên thận trọng trước các rủi ro trong giao dịch có yếu tố “số hóa”.

thị trường xuất khẩu

Chia sẻ thông tin về các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nhóm sản phẩm chủ lực

và những điều cần lưu ý cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Ảnh Đ.Doãn

Ngày 27/8, tại TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra Diễn đàn xuất khẩu 2019 với chủ đề “Nâng cao hiệu quả xuất khẩu trong bối cảnh hội nhập và xu hướng kinh tế số”. Tham dự có đại diện các hiệp hội doanh nghiệp (DN) trong nước và ngoài nước cùng hơn 500 DN hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.

Phát biểu tại diễn đàn, ông Phạm Thiết Hòa – Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh (ITPC) cho biết, TP. Hồ Chí Minh đã xác định nhiều thị trường tiềm năng cần đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu trong những năm tới. Đó là 2 thị trường quan trọng nhất là thị trường Trung Quốc và thị trường Hoa Kỳ.

Kế đến là thị trường các nước thuộc các hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, FTA Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu, FTA Việt Nam – EU; các thị trường Việt Nam ký kết các FTA song phương như Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile.

Ngoài ra, TP. Hồ Chí Minh cũng định hướng xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường Việt Nam đang đàm phán FTA như Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm Thụy Sĩ, Nauy, Iceland, Liechtenstein; Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực (RCEP) gồm ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, New Zealand và Israel.

Về xuất khẩu hàng hóa, có 7 nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực cần xúc tiến mạnh gồm sản phẩm từ kim loại đúc sẵn; sản phẩm thiết bị điện; sản phẩm từ nhựa, cao su; thực phẩm chế biến; đồ uống; sản phẩm điện tử - công nghệ thông tin; trang phục may sẵn; 1 nhóm sản phẩm công nghiệp tiềm năng là thuốc, hóa dược, dược liệu và 3 nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực gồm: trồng trọt rau và hoa cây kiểng, chăn nuôi bò sữa và heo, thủy sản gồm tôm nước lợ và cá cảnh.

“Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến xuất khẩu cũng tập trung vào mặt hàng gỗ và sản phẩm từ gỗ, bởi đây là mặt hàng chiếm tỷ trọng khá cao trong cơ cấu xuất khẩu của TP. Hồ Chí Minh” – ông Phạm Thiết Hòa nói.

Ông Phạm Thiết Hòa cũng lưu ý 5 vấn đề quan trọng mà DN cần nắm vững trong các FTA để nắm lấy cơ hội và phòng tránh rủi ro trong xuất khẩu. Đó là lộ trình cắt giảm thuế, các rào cản phi thuế quan, quy tắc xuất xứ, sở hữu trí tuệ và mua sắm công.

Còn theo ông Nguyễn Huy Hoàng - Giám đốc thương mại Công ty nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel, DN cần nhìn rõ ba động lực chính thúc đẩy sự tăng trưởng hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay là: chiến tranh thương mại Mỹ - Trung; CPTPP và các FTA; kỹ thuật số và thương mại điện tử.

Từ 3 động lực này, DN cũng nên nắm được các xu hướng tiêu dùng chính ở mỗi thị trường khu vực. Tại châu Á, có 5 xu hướng tiêu dùng chính là an toàn và tốt cho sức khỏe; sự vui vẻ, thoải mái, hạnh phúc; sự tiện lợi, dễ sử dụng, dễ tiếp cận; kỹ thuật số và thương mại điện tử; mua sắm đa kênh.

Còn ở Hoa Kỳ và châu Âu, phần lớn người tiêu dùng rơi vào nhóm lớn tuổi, họ có thói quen và hành vi khác với nhóm người trẻ ở châu Á. Có 5 xu hướng tiêu dùng chính ở các thị trường này gồm: an toàn và tốt cho sức khỏe, sự phân cực về hàng hóa (hàng nhãn riêng và giá rẻ với sản phẩm cao cấp), sự tiện lợi hơn, sự nâng cao trải nghiệm mua sắm và sự bền vững của xã hội.

Với lượng người tiêu dùng có ý thức cao về sức khỏe, chế độ dinh dưỡng thay đổi ít đường và nhiều đạm, Hoa Kỳ và châu Âu là những thị trường lớn cho sản phẩm hữu cơ (organic), trong đó Hoa Kỳ chiếm gần 50% thị phần. Người tiêu dùng ở các thị trường này cũng có khuynh hướng chọn các sản phẩm giá thấp, nhưng họ cũng sẵn sàng chi cho các mặt hàng cao cấp nếu giá trị mang lại tương xứng./.

Theo Thời Báo Tài Chính Việt Nam

(TBTCO) - Bộ Tài chính Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc đi vào chiều sâu, thực chất hơn, đồng thời tăng cường hợp tác, chia sẻ về các xu hướng trong chính sách giám sát tài chính ở hai nước.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng tiếp Thống đốc FSS

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng bên phải và Thống đốc FSS Yoon Suk Heun. Ảnh: Đức Minh
 

Ngày 28/8/2019, tại trụ sở Bộ Tài chính, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đã tiếp đoàn Cơ quan Giám sát dịch vụ tài chính Hàn Quốc (FSS) do ông Yoon Suk Heun - Thống đốc FSS làm trưởng đoàn.

Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng chào mừng ông Yoon Suk Heun và các thành viên đoàn đến thăm và làm việc với Bộ Tài chính.

Bộ trưởng cho biết, sau hơn 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc. Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam (kim ngạch song phương năm 2018 đạt 66,2 tỷ USD) và đang hướng tới mục tiêu đạt 100 tỷ USD vào năm 2020.

Đến nay, Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam với tổng số vốn đạt hơn 63,7 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư).

Cùng với chính sách “hướng Nam” mới của Hàn Quốc, thời điểm hiện nay đang là giai đoạn khởi đầu cho xu hướng đầu tư vào Việt Nam với chiến lược đầu tư công nghệ và kỹ thuật. Cùng với đó là mối quan hệ giao lưu trên các lĩnh vực giáo dục, hợp tác văn hóa, thể thao và du lịch đã giúp thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Hàn Quốc phát triển thực chất và hiệu quả.

bộ trưởng đinh tiến dũng

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đánh giá cao vai trò của FSS trong phát triển thị trường tài chính ở Việt Nam. Ảnh: Đức Minh

Bộ trưởng khẳng định, Bộ Tài chính Việt Nam tiếp tục nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc đi vào chiều sâu, thực chất hơn.

Bộ trưởng cho rằng, mối quan hệ hợp tác giữa Bộ Tài chính Việt Nam và FSS rất hiệu quả, thiết thực trên nhiều lĩnh vực như: thuế, hải quan, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán.

Bộ trưởng cho biết, trong thời gian tới, Bộ Tài chính mong muốn tiếp tục hợp tác và nhận được sự hỗ trợ của các đối tác Hàn Quốc, đặc biệt là của FSS trong các hoạt động: Tư vấn pháp lý nhằm hoàn thiện khung khổ pháp lý điều chỉnh thị trường chứng khoán; tư vấn và hỗ trợ việc nâng cấp hạ tầng hệ thống công nghệ thông tin cho thị trường chứng khoán; tăng cường trao đổi nhiều hơn nữa để tìm hiểu, tiếp cận nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư Hàn Quốc.

Đề cập tới phát triển công nghệ trong lĩnh vực tài chính, Bộ trưởng cho rằng, việc áp dụng công nghệ mới trong các dịch vụ tài chính là một xu hướng phát triển tất yếu trong kỷ nguyên số khi nền kinh tế số trở nên ngày càng rõ nét như hiện nay. Việc này sẽ góp phần quan trọng trong việc tăng cường khả năng tiếp cận thị trường của nhà đầu tư quốc tế cũng như trong nước.

Theo Bộ trưởng, nhằm xây dựng khung khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất để thu hút tối đa nguồn vốn cho đầu tư khởi nghiệp sáng tạo từ các nguồn trong và ngoài nước, Bộ Tài chính mong muốn được sự trợ giúp, trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế, trong đó có FSS, cơ quan chính phủ các nước cũng như cộng đồng các nhà đầu tư.

thị trường tài chính

Ông Yoon Suk Heun (bên phải) cam kết, FSS sẽ thắt chặt hợp tác với Bộ Tài chính Việt Nam. Ảnh: Đức Minh

Phát biểu tại buổi tiếp, ông  Yoon Suk Heun khẳng định, Việt Nam và Hàn Quốc đã thiết lập được mối quan hệ ngoại giao lâu dài và bền vững. Ông  Yoon Suk Heun tin tưởng, hai nước sẽ thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực.

Đề cập tới mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực giám sát tài chính, ông Yoon Suk Heun cam kết, FSS sẽ nỗ lực hết sức mình thắt chặt hợp tác với Bộ Tài chính Việt Nam, nhằm góp phần hơn nữa vào sự phát triển thị trường tài chính của Việt Nam, bao gồm cả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm./.

Theo Thời Báo Tài Chính Việt Nam

Các doanh nghiệp đến từ Hong Kong là nhà đầu tư lớn nhất khi rót 5,63 tỷ USD vào Việt Nam, chiếm 24,9% tổng số vốn.

Cục Đầu tư Nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết trong 8 tháng đầu năm, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,63 tỷ USD, bằng 92,9% so với cùng kỳ năm 2018. Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 11,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2018.

Theo đó, có 2.406 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Tổng vốn đăng ký cấp mới 9,13 tỷ USD, bằng 67,7% so với 8 tháng đầu năm 2018.

Về điều chỉnh vốn, có 908 lượt dự án đăng ký điều chỉnh với tổng vốn đăng ký tăng thêm gần 4 tỷ USD.

Đối với góp vốn, mua cổ phần, có 5.235 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 9,51 tỷ USD, tăng 80% so với cùng kỳ năm 2018 và chiếm gần 42% tổng vốn đăng ký.

Doanh nghiep Hong Kong rot 5,6 ty USD vao Viet Nam tu dau nam hinh anh 1

Trong 19 ngành, lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghiệp chế biến, chế tạo đang được nhiều doanh nghiệp nước ngoài rót mạnh vào Việt Nam với 15,74 tỷ USD, chiếm 69,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,31 tỷ USD, chiếm 10,2%. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn, bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,19 tỷ USD, chiếm 5,2%.

Xét theo đối tác, đã có 103 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hong Kong dẫn đầu với tổng vốn đầu tư 5,63 tỷ USD, chiếm 24,9% tổng vốn đầu tư. Trong đó, có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào Công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội.

Hàn Quốc xếp thứ hai khi đầu tư 3,48 tỷ USD, Singapore đứng vị trí thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,27 tỷ USD, chiếm 14,5%.

Hà Nội tiếp tục là địa bàn thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất với tổng số vốn đăng ký hơn 5,66 tỷ USD, chiếm 25%. TP.HCM đứng thứ hai với 3,86 tỷ USD. Trong khi đó, tổng vốn đăng ký đầu tư vào Bình Dương là 1,95 tỷ USD, chiếm 8,6% tổng vốn đầu tư.

Theo Zing

(VTC News) - Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước có nhiều tiến triển thuận lợi.

Tối 26/8, Thủ tướng Mahathir Mohamad đến Hà Nội, bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam từ 27-28/8/2019 theo lời mời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Đây là chuyến thăm chính thức đầu tiên của ông Mahathir Mohamad kể từ khi nhậm chức tháng 5/2018.

Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh quan hệ hai nước có nhiều tiến triển thuận lợi, quan hệ chính trị ngày càng gần gũi, tin cậy. Hai bên duy trì trao đổi đoàn, triển khai các cơ chế hợp tác song phương hiệu quả.

Thu tuong Malaysia tham Viet Nam: Cung co quan he huu nghi hai nuoc hinh anh 1

 Lễ đón Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad tại sân bay quốc tế Nội Bài. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Việt Nam và Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 30/3/1973. Hai bên thường xuyên trao đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao, gần đây là chuyến thăm Việt Nam của Quốc vương Muhamad đệ ngũ (3/2009, 9/2013); Thủ tướng Najib Razak (4/2014); và các chuyến thăm Malaysia của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (9/2011) và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (8/2015).

Hai nước ra Tuyên bố chung về khuôn khổ quan hệ Đối tác chiến lược nhân chuyến thăm chính thức Malaysia của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (8/2015); thông qua Chương trình Hành động triển khai Đối tác Chiến lược (3/2017). Năm 2018, hai bên đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

Thu tuong Malaysia tham Viet Nam: Cung co quan he huu nghi hai nuoc hinh anh 2

 (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Hợp tác quốc phòng được duy trì thông qua trao đổi đoàn các cấp và giao lưu, đào tạo, trao đổi kinh nghiệm giữa các quân, binh chủng 5. Về hải quân, từ năm 2009 (gần đây nhất là tháng 7/2017), Hải quân hai nước đã tiến hành trao đổi dự thảo Bản ghi nhớ về thiết lập cơ chế tuần tra chung và liên lạc đường dây nóng, tuy nhiên phía Malaysia vẫn chưa đi đến quyết định do còn vướng mắc giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Malaysia. Bên cạnh đó, hai bên liên tục cử tàu thăm lẫn nhau.

Về không quân, Quân chủng Phòng không – Không quân đã đón đoàn doanh ngiệp công nghiệp quốc phòng Malaysia sang tìm hiểu khả năng hợp tác về một số lĩnh vực liên quan đến bảo trì, bảo dưỡng máy bay Su-30, tên lửa và radar Không quân.

Hợp tác an ninh hai bên không ngừng đẩy mạnh. Hai bên tăng cường trao đổi thông tin liên quan công tác phòng, chống khủng bố, tội phạm mạng, tội phạm xuyên quốc gia. Năm 2015, hai bên đã ký kết Hiệp định về hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia.

Về thương mại, hai nước là một trong 10 đối tác thương mại lớn nhất của nhau (Malaysia là đối tác thương mại thứ 8 của Việt Nam, ta là đối tác lớn thứ 10 của bạn). Kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng trưởng tốt: năm 2017 đạt hơn 10 tỷ USD, năm 2018 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 13,2% so với năm 2017 (ta nhập  7,5 tỷ USD từ Malaysia, xuất khẩu của ta sang bạn đạt 4 tỷ USD).

Việt Nam xuất chủ yếu sang Malaysia dầu thô, gạo, cà phê, hải sản; nhập chủ yếu sắt thép, xăng dầu, dầu mỡ động thực vật, chất dẻo nguyên liệu, máy móc thiết bị, máy vi tính và sản phẩm điện tử. 

Về đầu tư, tính đến tháng 4/2019, Malaysia có 586 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt 12,4 tỷ USD, đứng thứ 8/130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (chủ yếu dự án bất động sản và công nghiệp chế biến). Ta có 19 dự án đầu tư sang Malaysia với tổng vốn đầu tư đạt 1,53 tỷ USD, trong đó có 2 dự án trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí với tổng vốn đầu tư 558 triệu USD (dầu khí, thông tin - truyền thông…).

Thu tuong Malaysia tham Viet Nam: Cung co quan he huu nghi hai nuoc hinh anh 3

 (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Về hợp tác lao động, hiện có khoảng 29.000 lao động hợp pháp Việt Nam tại Malaysia, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất chế tạo, xây dựng, nông nghiệp, thủy sản… Tháng 11/2018, hai bên đã họp Nhóm công tác chung (JWG) lần thứ nhất bên lề Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN lần thứ 25 tại Kuala Lumpur để triển khai thực hiện Bản ghi nhớ về hợp tác lao động (ký năm 2015).

Hai bên đã ký kết Hiệp định hợp tác du lịch năm 1994. Năm 2018, khách Malaysia đi du lịch Việt Nam đạt hơn 540 nghìn lượt, tăng 12,4% so với năm 2017, là thị trường gửi khách đứng thứ 7 của Việt Nam.

Hiện đang có khoảng hơn 1000 lưu học sinh viên Việt Nam du học tại Malaysia. Hai bên đã ký MOU về hợp tác giáo dục ngày 06/3/2019 (thay thế cho Bản ghi nhớ ký năm 2004). Cộng đồng người Việt tại Malaysia hiện có khoảng 65.000 người, sinh sống rải rác tại 13 bang, trong đó phần lớn là người lao động, ngoài ra còn 7.200 cô dâu và 700 sinh viên. 

Petro Việt Nam và Petronas Malaysia có quan hệ hợp tác từ năm 1991 trên tất cả các lĩnh vực của ngành công nghiệp dầu khí từ tìm kiếm thăm dò đến chế biến, dịch vụ. Hai bên đang triển khai 10 dự án hợp tác với tổng trữ lượng khoảng 72.000 thùng dầu/ngày.

Hai nước thường xuyên phối hợp và ủng hộ nhau tại các diễn đàn khu vực và quốc tế nhất là ASEAN và Liên hợp quốc (Malaysia ủng hộ Việt Nam vào Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021). Hai nước đang phối hợp tốt trong thúc đẩy phát triển Cộng đồng ASEAN.

Theo VTC

Theo Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong 8 tháng năm 2019, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,63 tỷ USD, bằng 92,9% so với cùng kỳ năm 2018.

Theo đó, có 2.406 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tăng 25,4% số dự án so với cùng kỳ năm 2018. Tổng vốn đăng ký cấp mới 9,13 tỷ USD, bằng 67,7% so với cùng kỳ năm 2018.

Đồng thời có 908 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư, tăng 23,4% so với cùng kỳ năm 2018. Tổng vốn đăng ký điều chỉnh gần 4 tỷ USD, bằng 71,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 8 tháng năm 2019, quy mô điều chỉnh mở rộng vốn của các dự án nhỏ, không có dự án tăng vốn lớn như trong cùng kỳ năm 2018.

Bên cạnh đó có 5.235 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp 9,51 tỷ USD, tăng 80% so với cùng kỳ 2018 và chiếm 42% tổng vốn đăng ký.

Vốn thực hiện của dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 11,96 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm 2018.

Theo lĩnh vực đầu tư, các nhà nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực, trong đó đầu tư tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với tổng số vốn đạt 15,74 tỷ USD, chiếm 69,6% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 2,31 tỷ USD, chiếm 10,2% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ ba là lĩnh vực bán buôn bán lẻ với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 1,19 tỷ USD, chiếm 5,2% tổng vốn đầu tư đăng ký.

Theo quốc gia, khu vực Hồng Kông là dẫn đầu đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư 5,63 tỷ USD (trong đó, có 3,85 tỷ USD mua cổ phần vào công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội), chiếm 24,9% tổng vốn đầu tư. Hàn Quốc đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư 3,48 tỷ USD, chiếm 15,4% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.  

Theo CafeLand

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho biết, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 8 tháng năm 2019 ước tính đạt 47,11 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt gần 26,6 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2018. Đáng chú ý, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng của nhóm lâm sản chính tiếp tục tăng đến 18,6%.

Xuất khẩu nông lâm sản đạt hơn 26 tỷ USD trong 8 tháng 2019

Xuất khẩu cao su của Việt Nam đạt 1,32 tỷ USD trong 8 tháng 2019.

Cụ thể, về xuất khẩu (XK): Kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8 ước đạt 3,64 tỷ USD, tăng 5,1% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng, kim ngạch XK ước đạt 26,58 tỷ USD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2018 trong đó có 8 nhóm/sản phẩm có giá trị XK trên 1 tỷ USD . Nhóm nông sản chính ước đạt 12,4 tỷ USD, bằng 91,7%, chiếm 46,7% tổng kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ năm trước là 51,7%); lâm sản chính đạt 7,08 tỷ USD, tăng 18,6% và chiếm 26,6% tỉ trọng XK (tăng 3,8 điểm phần trăm so với 8 tháng năm 2018); thủy sản ước đạt 5,52 tỷ USD, giảm 1,2%, chiếm 20,8% (tỷ trọng giảm 0,5 điểm phần trăm).

Giá trị xuất khẩu một số mặt hàng chính 8 tháng năm nay tăng so với cùng kỳ năm trước: cao su đạt 1,32 tỷ USD, tăng 7,8%; chè đạt 150 triệu USD, tăng 22,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,66 tỷ USD, tăng 17,5%; quế đạt 107 triệu USD, tăng 19,3%; mây tre, cói đạt 311 triệu USD, tăng 48,1%.

Về thị trường, Bộ NN&PTNT cho biết, XK sang Trung Quốc 7 tháng đạt 4,74 tỷ USD, giảm 8,9% so với 7 tháng năm 2018, nhưng XK sang Hoa Kỳ tăng mạnh và đạt 4,78 tỷ USD, tăng 12,6%. Do vậy, Hoa Kỳ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông sản Việt Nam, chiếm tỉ trọng 20,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (cao hơn Trung Quốc 0,1 điểm phần trăm); tiếp đến là EU chiếm 12,0%; ASEAN chiếm 9,5%; Nhật Bản chiếm 8,4%.

Về nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu nông lâm thủy sản và vật tư nông nghiệp trong tháng ước đạt 2,4 tỷ USD, giảm 9,1% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng, ước đạt 20,54 tỷ USD, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2018; trong đó, nhập khẩu các mặt hàng phân bón, thuốc trừ sâu và các nông sản chính khoảng 17,2 tỷ USD, giảm 2,0% so với cùng kỳ.

Như vậy, cán cân thương mại hàng hóa thực hiện 7 tháng xuất siêu 4,8 tỷ USD; tháng 8 ước tính xuất siêu 1,2 triệu USD. Tính chung 8 tháng ước tính xuất siêu 6,04 tỷ USD (cao hơn 661,6 triệu USD so với cùng kỳ năm trước).

Theo Bộ NN&PTNT, trong thời gian tới, thương mại toàn cầu dự báo sẽ tiếp tục suy giảm và dòng vốn đầu tư toàn cầu tiếp tục chịu ảnh hưởng từ những yếu tố rủi ro bởi chính trị, căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế chủ chốt, chính sách bảo hộ. Bên cạnh đó, XK nông sản chịu áp lực cạnh tranh lớn và sự gia tăng các rào cản thương mại, nhất là từ thị trường Trung Quốc trong bối cảnh giá XK một số nông sản chủ lực vẫn còn xu hướng giảm.

Ngoài ra, diễn biến thời tiết bất thường, tình trạng nắng nóng kéo dài, hạn hán, xâm nhập mặn, dịch tả lợn châu Phi tiếp tục ảnh hưởng tới sản xuất nông lâm thủy sản. Hơn nữa, áp lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đảm bảo giải ngân được 57,8% kế hoạch đầu tư phát triển của ngành trong 4 tháng cuối năm là rất lớn.

Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng ngành nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đề nghị toàn ngành cần tập trung triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để phòng chống thiên tai, khống chế dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi đảm bảo ổn định sản xuất nông lâm thủy sản, đẩy mạnh XK, tăng cường công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và đẩy nhanh tiến độ thi công, giải ngân các dự án.

Theo Báo Kiểm Toán Nhà Nước

Nếu tại Nhật, người dân nước này coi những chiếc keicar là ưu tiên số một trong lựa chọn xe đi lại, hoặc giả là các dòng xe nội địa, xe của hãng Nhật sẽ được lựa chọn thì tại Việt Nam, xu hướng tiêu dùng xe hơi đang đa dạng hơn, phức tạp và khó nắm bắt hơn.

Vì sao ô tô giá rẻ vẫn là phương tiện tương lai của phần lớn người Việt?

Giá đắt, chi phí nuôi xe lớn nên xe hơi đối với phần lớn người dân Việt vẫn là mơ ước.

Loay hoay tìm xe chiến lược cho Việt Nam

Rất nhiều chuyên gia về xe hơi Việt Nam cho biết hiện không có câu trả lời rõ ràng về dòng xe chiến lược cho người Việt. Dựa vào số tiêu thụ xe hơi hiện nay, sedan vẫn là dòng xe có doanh số cao nhất, chiếm khoảng 50 - 60% thị phần tiêu dùng và thị trường xe du lịch Việt. Tuy nhiên, để chọn sedan là xe chiến lược cho Việt Nam không hề dễ.

Trong khi đó, ở phân khúc đang nóng bỏng hiện nay là xe giá rẻ hatchback, trong hai năm trở lại đây, dòng xe này nhận được sự quan tâm rất lớn trên thị trường với doanh số cao. Tuy nhiên, qua thời gian dòng xe này đã tỏ rõ nhược điểm: Gầm thấp, chở ít người, tiêu chuẩn xe không cao, dễ tổn thương do ngập lụt đô thị và là sự lựa chọn thứ yếu để di chuyển xa.

Với ưu điểm là giá rẻ, dáng nhỏ gọn, phù hợp với đường sá nhỏ hẹp ở đô thị, hatchback đã tỏ rõ sự lợi hại ở thành thị và mấy năm nay, dòng xe này đã được rất nhiều ông lớn đổ bộ đầu tư.

Hiện, xe có giá từ 300 đến dưới 500 triệu đồng được mặc định là xe giá rẻ ở Việt Nam, hai thương hiệu đi đầu phân khúc này là Kia Morning và Hyundai Grand i10. Tuy nhiên, gần đây các ông lớn này cũng phải chia sẻ thị trường xe phân khúc nhóm A cho các đối tác nhập khẩu khác như Honda với Brio hay Toyota với Wigo và hãng xe nội địa VinFast với mẫu Fadil.

Theo chuyên gia ô tô của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), thị trường có, nguồn cung dồi dào là cơ sở để Việt Nam ưu tiên, chọn các mẫu hatchback làm xe chiến lược, "xe quốc dân" của mình giống như Keicar của Nhật, pickup của Thái Lan chẳng hạn.

Tuy nhiên, để lựa chọn dòng xe hatchback giá rẻ này làm xe chiến lược, không phải ai cũng hài lòng, nhất là bối cảnh người Việt có mức thu nhập thấp, để mua chiếc xe giá rẻ, họ phải dành dụm tiêu dùng ít nhất 2 - 3 năm, nhiều có thể 5 - 10 năm. Xe giá rẻ tại Việt Nam thực tế chỉ rẻ so với thu nhập của người dân đô thị, còn đối với nông thôn, nó vẫn là phương tiện giao thông tương lai.

Theo cách tính thu nhập bình quân GDP/người của người Việt, năm 2018, thu nhập của người Việt vào khoảng 59 triệu đồng/người/năm. Trong khi đó, theo các báo cáo của Nielsen, Q&Me, người Việt chi tiêu khoảng 50% tổng thu nhập cho các hoạt động nhà ở, ăn uống, mua sắm gia đình, chữa bệnh; 20% dành cho con cái học tập và cưới hỏi, lễ nghĩa... còn lại mới là khoản tiền dành cho tiết kiệm.

Người Việt phải bỏ nhiều tiền để chơi xe

Như vậy, với hộ có thu nhập bình quân đầu người bằng với bình quân chung của cả nước, nếu sức khỏe tốt sẽ phải mất ít nhất 3 năm mới đủ tiền tiết kiệm mua xe.

Nhiều dòng xe giá rẻ tại Việt Nam nhưng do thu nhập bình quân đầu người thấp,
đa số người Việt khó sở hữu được xe trong thời gian ngắn.  

Trong khi đó, hơn 90% người sở hữu xe hơi là những người thu nhập trung bình hoặc cao ở Việt Nam, chính vì vậy chiếc xe không còn chỉ là phương tiện di chuyển mà để thể hiện sự an toàn, vị thế trong xã hội và thuận lợi trong các quan hệ đối tác. Chính vì vậy, những chiếc xe quá rẻ, quá nhỏ, nghiễm nhiên không được chọn.

Theo lời một giám đốc truyền thông của tập đoàn xe hơi tại Việt Nam: "Để kinh doanh ổn định, tôi luôn muốn chọn các dòng xe giá rẻ. Nhưng để có lợi nhuận, tôi phải chọn dòng xe cao cấp hơn".

Gần đây, thị trường xe hơi Việt nổi lên các dòng xe đa dụng cỡ nhỏ, xe đô thị có kiểu dáng bắt mắt và phù hợp với đa số tầng lớp người dân giàu nhanh.

Theo thống kế của VAMA, doanh số các dòng xe SUV và MPV trong 7 tháng qua đã tăng mạnh, cụ thể lượng bán ra xe SUV đạt hơn 32.000 chiếc, tăng gần 20.000 chiếc so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tiêu dùng xe SUV đang bằng gần 60% so với xe sedan. Trong khi đó, mẫu xe MPV cũng có doanh số đạt hơn 18.500 chiếc, tăng hơn 7.500 chiếc so với cùng kỳ. Cả hai dòng xe đều có mức tăng mạnh hơn so với mức tăng doanh số của mẫu sedan.

Không thể phủ nhận thực tế, các dòng xe đa dụng đô thị của SUV, MPV hiện nay có giá bán đều trên 600 triệu đồng/chiếc, cộng chi phí lăn bánh có thể lên trên 700 triệu đồng, gấp 11 lần thu nhập/năm của người Việt bình thường. Như vậy, nếu phải ăn dè hà tiện, tiết kiệm 11 năm, theo thu nhập hiện nay người bình thường mới có thể mua được xe.

Theo ông Nguyễn Việt, một doanh nghiệp kinh doanh xe hơi tại Việt Nam: "Việt Nam đã từng chọn xe chiến lược là các dòng MPV gia đình, có khung trục của các dòng xe cỡ lớn chở được cả gia đình, kinh tế hơn và nếu doanh nghiệp nắm vững thiết kế có thể cho nhiều biến thể khác nhau. Tuy nhiên, sau khi nội địa hóa Innova dừng lại, từ đó đến nay không còn dòng xe chiến lược của Việt Nam, về cơ bản Việt Nam không có dòng xe chiến lược, thị trường chạy theo xu hướng của người tiêu dùng và doanh nghiệp đặt ra, về lâu dài sẽ không có lợi cho nhóm doanh nghiệp trực tiếp sản xuất, lắp ráp xe trong nước".

Theo Dân Trí

 

(Kỷ Nguyên Số) Các cuộc tấn công mạng gây tổn thất nghiêm trọng về tiền của, dữ liệu, thiết bị và cả danh tiếng của công ty.

Nếu tin tặc tấn công vào hệ thống mạng của doanh nghiệp, chúng có thể giành quyền truy cập vào danh sách khách hàng, thông tin thẻ tín dụng của khách hàng hoặc thông tin ngân hàng của công ty... Những tổn hại này không chỉ tác động đến các tập đoàn lớn, chính phủ mà còn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Theo khảo sát của Kaspersky năm 2018 - “Growing businesses safely: Cloud adoption vs. security concerns”, 74% doanh nghiệp vừa và nhỏ thừa nhận không chú trọng đến an ninh mạng.

Từ tháng 3/2017 đến 2/2018, chi phí trung bình của một sự cố an ninh mạng đối với doanh nghiệp 1,23 triệu USD (khoảng 23 tỷ đồng). Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, trung bình mỗi sự cố tấn công mạng năm 2018 tiêu tốn của doanh nghiệp 120.000 USD, nhiều hơn 32.000 USD so với năm 2017.

 

Ông Yeo Siang Tiong, Tổng giám đốc Kaspersky khu vực Đông Nam Á, cho biết: “Các cuộc tấn công mạng có thể gây ra hậu quả đáng kể cho các doanh nghiệp. Một khi khách hàng biết rằng thông tin của họ bị xâm phạm, danh tiếng của doanh nghiệp có thể bị suy giảm và điều này đôi khi còn nặng nề hơn tổn thất về tiền”.

Các doanh nghiệp SMB tại Việt Nam đóng góp rất nhiều cho tăng trưởng kinh tế của đất nước và chính phủ cũng đang nỗ lực rất nhiều để nâng cao nhận thức về những rủi ro trong quá trình chuyển đổi số hóa.

Để tăng cường bảo mật mạng, các công ty có thể áp dụng một số giải pháp sau đây: 

- Thông báo với nhân viên IT của công ty về các mối đe dọa mạng.

- Thiết lập quy trình tại chỗ để tạo và lưu trữ/sao lưu dữ liệu an toàn.

- Kiểm soát truy cập dữ liệu của công ty.

- Cập nhật phần mềm lên phiên bản mới nhất cho tất cả thiết bị. Thường xuyên cập nhật các bản giá có thể giúp công ty tránh được các mối đe dọa mạng.

- Sử dụng phần mềm chuyên nghiệp để bảo vệ dữ liệu.

페이지 26 / 전체 35

전략적 파트너십